Kẻ thù ta ơi những đứa xăm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo ....
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi..
(thơ Nguyễn Bắc Sơn)
Trong một bữa nhậu quán vắng chiều hôm…
Tôi gặp một thằng Nam Kỳ uống rượu ngọt như bưởi Biên Hòa. Nó uống rất đẹp, khoan thai cầm cái ly tay trái, xoay xoay đưa lên từ từ, điềm đạm từng ngụm nhỏ như cân đo đong đếm. Mép khẽ nhếch lên nhấp một tí, rồi lại thong thả đưa cái ly xuống. Cùng lúc, tay phải nó quẹt cái bật lửa Zippo vào đùi cái “tách” mồi điếu thuốc lá. Lờ đờ nhả khói. Xong từng ấy thủ tục. Bèn lừ đừ nhắp một miếng mồi, đưa cái ly lên ngang miệng và cũng từng động tác chậm chạp ấy, không thừa không thiếu. Mà nó uống thì thần sầu, lặng lờ như một cái bóng, độ này qua độ khác, từ lúc nhập trận đến khi tan hàng, càng uống càng tỉnh, mặt không hề đổi sắc. Chẳng thấy bao giờ nó ôm địa bàn hay cho chó ăn chè, ngồi một chỗ đóng chốt từ lúc tới cho đến khi nửa khuya đèn vàng. Tôi chịu đèn nó nhất ở cái khỏan uống rượu qua sông không màng…vén quần này.
Nó khật khưỡng uống, càng về khuya, hình như càng không mảy may đắm chìm trong thế tục, qua tiếng ồn ào, ngập khói thuốc lá dầy đặc. Và nó bao giờ cũng vậy, khuất nẻo và tĩnh lặng như…Bồ Đề Đạt Ma.
Nó không như mấy tửu đồ khác, rượu vào lời ra, bắng nhắng như nhặng vào cầu tiêu. Nếu nó có phải vén môi cho phải đạo tiêu giao thì cũng ở cái thế chẳng đặng đừng, chừng mực vừa phải. Bao giờ cũng vậy, nheo nheo cái đuôi mắt, buông từng tiếng, giọng trầm và chắc nịch. Nếu tay ngang nào ồn ào quá lắm thì nó chỉ cười mỉm chi, cầm ly rượu, như suy nghĩ và làm một hơi, gắp một miếng mồi, mắt đăm chiêu vẫn nhìn thẳng vào người đối thọai. Nhưng hình như có một chút nào lơ là, buông thả. Qua khuôn mặt phẳng lì, có hơi một chút lợn cợn nét khinh đời khinh bạc.
Quái hơn nữa là: Nó gần như không nói gì về nó.
Trong khi một lũ điếc không sợ súng, thổ ngơi thằng nào cũng gần kho đạn Gò Vấp. Cậu thiếu úy sư đòan 1, mặt búng ra sữa, qua đến Guam lên trung úy, tới camp Pendleton, đặc cách lên đại úy. Khỉ một cái là mỗi lần đổi trại, là mỗi lần đổi quân binh chủng có lửa, như lực lượng đặc biệt chốn biên thùy, hay biệt kích bên kia vĩ tuyến, ông cố nội ai mà mò ra. Nghe tức như bò đá, giữa đám ba quân chẳng lẽ lật tẩy nhau ra, nhờ cậu tí. Cậu chơi khó anh em quá, bộ nghĩa quân với địa phương quân để cho chó gặm à. Chuế hơn nữa, uống thuốc liều và bán trời không văn tự là quan ba tầu bay L 19, ngày 30 tháng Tư đáp máy bay nhấp nhổm xuống xa lộ Biên Hòa, người tình lái xe Honda đuổi theo sau, vèo một cái, đu lên lửng lơ giữa trời như chị James Bond 007. Tôi nghĩ trong đầu, mẹ kiếp, bốc vừa phải thôi quan anh, quan anh lái máy bay như đạp…xích lô không bằng. Một khứa khác nốc một phùa, mặt đỏ như con gà chọi, say men chiến thắng nổ như tạc đạn, miểng văng tứ tung rằng là pilot A 37, lấy máy bay làm quan tài bay, ăn cơm dưới đất làm việc trên trời, cầy mệt nghỉ. Nhưng khứa này thì hết thuốc chữa, tôi muốn chửi thề nhưng cũng ngọng luôn vì như áo liền quần, khứa quên béng nó mất …cái kính cận to tổ bố. Mệt khứa này quá, chịu trời không thấu.
Kẹt một nỗi, cố tật của mấy ông cố nội là hay…quên. Vì rằng phịa quá nhiều rồi nên làm sao…nhớ. Khổ là khổ cho mấy thằng nghe, lúc nào cũng như ở trên trời rơi xuống ấy! Như…lính nhẩy dù vậy!
***
Khỏang thời gian ấy là giữa năm 75 và 80, vừa mới đứt phim, một lũ tụi tôi như những cánh chim tan tác gọi nhau họp đàn. Cứ chiều thứ sáu, đi làm về là tạt qua cái quán nằm ở góc đường, nằm tuốt luốt trong trung tâm thành phố. Thằng nào ra sớm thì ngồi đấy, làm một hai chai dằn bụng cho ấm lòng kẻ tha hương người lữ thứ, nhìn trời nhìn đất, buồn nhiều hơn vui. Càng về chiều, lũ trôi sông lạc chợ ới nhau tới càng ngày càng đông, quán mì hủ tiếu do anh Tầu Chợ Lớn làm chủ, ban ngày ban mặt vắng như chùa Bà Đanh, món nhậu chính danh, danh trấn giang hồ là síu quách. Như một thông lệ bất thành văn, vào độ, mỗi khứa thay nhau làm một “round” bia, tiền chao cháo múc, ăn nhậu tự nhiên, cười nói vung vít, nước miếng văng mệt nghỉ. Cuối tuần lương, tay nào chịu chơi thì bắt đĩa bò lúc lắc dai như đỉa đói, ai sâm mình lắm thì xách theo một chai rượu mạnh. Và mỗi chai rượu đều có tình sử riêng của nó, vì tất cả nằm trong những ngày tháng chân ướt chân ráo, cùng đất khách quê người, tha hương ngộ cố tri.
Trôi sông lạc chợ và tôi đã gặp nó ở cái quán vắng đìu hiu này.
Nó hơn tôi hai tuổi, tạng người phảng phất như có một cái gì đó hơi khác người qua đôi mắt chìm sâu và nhất là cái miệng uống rượu rất có nét cùng cái cười nhếch mép và…đặc biệt hơn nữa, nó lại chuyên ngành…thợ tiện. Chẳng phải vô tri bất mộ gì, xét nét về cái thằng tôi với quá khứ vị lai thì tôi vốn dĩ là thiếu úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa, sĩ quan biệt phái. Cuốn vó qua đây, xách được cái thẻ quân nhân giữ như giữ mả tổ, lâu lâu lại nhòm tí chơi thấy mặt mày búng ra sữa, chân tay học trò trói gà không chặt. Trong khi khuôn mặt nó có vẻ ngầu hơn, chân tay nó cũng to khỏe hơn. Cho đến lúc tôi biết nó là thiếu tá Dù, như bị tự kỷ ám thị, cái nhìn của tôi về nó lại chệch qua một góc độ khác. Ở cái tuổi tam thập nhi lập, tôi đang tay bồng tay bế nó đã tang bồng hồ thỉ, sách quân xuống đông đông tĩnh, lên đòai đòai tan tự hồi tám kiếp nào rồi. Nói cho cùng thì vàng bạc có giá, rau cá theo buổi chợ, cũng phải né nó một chút chứ, không ít thì nhiều đường đường cũng là tiểu đòan trưởng, giang hồ nửa gánh non sông một chèo. Ấy là chưa tính nhằm vào cái thời buổi láo nháo mới qua đây xin nhận nơi này làm quê hương, lại mới tàn cuộc binh đao, những thiên hùng ca với “con ễnh ương ngồi trong nón sắt” hay “anh còn viên đạn đồng để lại cho em làm kỷ vật cho em” đang vất vưởng đâu đó trong những ngày nhạt nắng. Thế nên mẫu người hùng ngã ngựa của nó rất dễ để tôi yếu lòng và ngưỡng mộ nó trong những ngày vất vưởng ấy.
Càng ngày tôi càng gần gũi nó hơn vì nghe hơi nồi chõ, trên răng dưới lựu đạn, làm được đồng nào là gửi qua trại tị nạn giúp đám đàn em đang nằm ăn vạ ở bên đảo. Tên nào qua được bên này, hay từ tiểu bang khác tới là nó mang về nhà nuôi báo cô. Một lần mò tới căn chung cư của nó, tôi phải bước qua cả ba, bốn cái thân xác nằm ngủ ngổn ngang dưới sàn nhà như chết rồi. Để rồi tôi lại càng mến mộ nó hơn nữa, khi tôi biết nó là dân Võ Bị Đà Lạt khóa 19, sau đấy tôi với nó gần gũi nhau như bóng với hình. Chuyện cũng chẳng có gì lạ, nhiều khi trong cõi người ta, bạn bè thân quen và thân thiết qua một nhân vật thứ ba, ấy là thằng bạn đời của tôi khóa 21 mà nó là huyng trưởng. Mỗi khi nhắc đến thằng bạn chung, giọng nó trầm hẳn xuống, mặt như có hồn, mắt như có khói, bằng vào cái chép miệng: “ Ông thần này cũng bậy thật, khi không rửa chân lên bàn thờ ngồi cho sớm sủa làm chi chẳng biết nữa”.
Sau đấy tôi hay ghé phòng nó “lỳ một lam, làm một ly”. Cùng những ngày tháng qua mau, để rồi ngôn ngữ như cơn nước thủy triều, từ ông tôi qua mày tao lúc nào không hay. Tôi lại càng nghiêng mình “thành kính phân ưu” nó hơn nữa, khi nghe lóang thóang, trong một trận thư hùng với Bắc quân, nó đã đơn phương độc mã, quyết định tha tào một đám tàn binh đào thóat qua bên kia biên giới. Chuyện cứ như thật, nghe như chuyện phong thần, nhưng tôi vẫn chưa có dịp hỏi nó những uẩn khúc bên lề. Ngày rộng tháng dài, tôi rình rình một một ngày nào đó sẽ hỏi cho ra nhẽ.
Tôi cũng chẳng thấy bao giờ nó lận súng trong người. Tôi thì khóai súng, nhất là khẩu Colt 45 của quân đội Đại Hàn, hai cái má cán bằng gỗ vân nâu đỏ, chỉ to bằng ba phần tư khẩu của Mỹ. Mê hơn nữa là cái mầu thép xanh lè và lạnh mát, cầm vừa tay lại nhẹ hều. Tôi muốn thửa khẩu này để góp mặt với đời, phòng khi những lúc tai bay vạ gió. Hỏi nó, nó lắc đầu quầy quậy: “Dẹp đi cha! Bộ cha tính đóng tuồng người hùng cô đơn hả?”. Một lần, hai thằng tôi ngồi ở một cái quán quen dưới phố, không như mọi lần, nó nhè phơi cái lưng như cánh phản ra cửa. Vậy mà nó làm như mả lắm, trong buổi hỗn quân hỗn quan, nhiều lần dậy khôn tôi: Ngồi thì phải trấn ngay lối ra vào, để dễ bề…di tản chiến thuật. Nếu cần kéo cái ghế trống để xéo bên cạnh…như đắp mô. Thủ chai bia không để đấy nằm trong tầm tay, cần lắm thì quăng…lựu đạn. Rồi biến cho nhanh...
Bố khỉ, khôn ba năm dại một giờ, gần khuya bỗng dưng có bốn thằng bung cửa ập vào như gió cuốn, thằng nào thằng nấy chùm mặt kín mít bằng cái vớ đàn bà, súng ống trang bị ngập răng. Thằng chặn cửa, thằng bay vào quầy tính tiền. Hai thằng còn lại chia nhau hai bàn có khứa, tay quơ súng lọan cào cào châu chấu, miệng hò hét lung tung như bị động kinh, nhìn thấy hoa cả mắt, chóng cả mặt như trời sập. Thằng du đãng nhí ào tới bàn tôi, kê súng ngay thái dương nó, vừa quát tháo vừa chửi thề bằng tiếng ta lẫn tiếng tây để áp đảo tinh thần…địch. Tôi nhìn thấy nguyên con cánh tay sâm xanh lòm hình chữ Vạn của nhà Phật. Thằng con dường như lần đầu lâm trận, cái đầu ruồi rung rung thấy rõ. Tôi còn nhớ như in trong đầu với ý nghĩ: Lỡ mà nó cướp cò thì…vỡ mặt. Còn nó tỉnh bơ, khẽ nhích cái đầu sang một bên để tránh nòng súng. Lơ đễnh nhìn thằng du đãng rồi dằn từng tiếng một:
- Mày bắn tao không chết. Mày…chết.
Thằng con khựng lại đến mấy giây, rồi đột nhiên hô hóan ầm ĩ :
- Đủ má…Lộn rồi tụi bay!
Và nó cũng không quên la bải hải:
- Dọt!
Tụi nó quậy um cả lên, rồi đánh mau rút lẹ và thu dọn chiến trường không đầy hai phút phù du. Ít lâu sau, tôi mới biết thằng con tên Vạn, biệt danh là Vạn Việt Cộng,16 tuổi bụi đời đăng lính. Nhưng chưa bắn được một phát súng nào, thay vì nhẩy dù cố gắng, nó…tan hàng cố gắng, chạy theo tiểu đòan khơi khơi leo lên tầu chiến từ Vũng Tầu để lớ ngớ qua cái thành phố này. Mấy tháng sau khỏang 5, 6 giờ sáng. Nó dựng đầu tôi dậy để lái xe vào nhà tù đóng tiền thế chân cho thằng con ra. Chuyện cũng dễ hiểu thôi, thằng con vốn sáng say chiều sỉn, khuya lái lủi vào hàng rào nhà người ta, rồi ngất ngưởng lái xe về với cái số con rệp, để lại…cái bảng số xe ở góc vườn mới điên cái đầu. Chuyện nó cứu bồ cho thằng nhóc cũng dễ hiểu thôi, vì cái tình huyng đệ chi binh, cái thằng con dại cái mang một lần dỡn mặt với nó ấy cũng là dân mũ đỏ. Mỗi lần có ai nhắc đến…sự cố này, nó chỉ nhếch mép: “Chuyện nhỏ, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”.
***
Chiều 30 tháng Tư, nó lôi tôi ra cái quán mới mở gần nhà. Tôi mang cái tháng Tư đen này vào đây để thành chuyện, không phải vì muốn than vắn thở dài cùng ôm mối sầu hòai cố quốc, để mà rối rắm thêm. Mà vì nó ới thì tôi có mặt, bình thường như mọi ngày, chứ chẳng phải làm dáng gì cho bài viết. Xách chai Cognac .75 còn non nửa tới để làm duyên, tôi thấy nó đã ngồi đồng ở đấy, lù lù trên bàn như cái mả Đạm Tiên thêm một chai vàng khè một lít nữa. Tôi nghĩ thầm trong đầu, bỏ mẹ, với mảnh đời rách nát còn lại, từ giờ đến khuya, đại bác không giật 75 đụng với gà cồ 105 gáy cho vài quả thì chỉ có thác, từ chết đến bị thương, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ nên làm nản lòng chiến sĩ cái thằng tôi biết mấy.
Nó ực và chịu nói nhiều hơn mọi khi, nhưng tuyệt không có những chuyện tan hàng lẩm cẩm hay di tản chiến thuật vớ vỉn. Nửa chừng nó luận về chuyện Tam Quốc vì nó chịu ông mặt đỏ râu dài với cây thanh long đao, con ngựa xích thố và cái dũng, cái nhân của ông thần này, hiểu theo nghĩa là không bỏ của chạy lấy người. Chợ chiều vắng khách, bỗng tôi chợt nhớ ra tích Quan Công tha Tào Tháo ở cái chỗ khỉ ho cò gáy nào đó ở tận mãi bên Tầu…Bắt qua chuyện cũ, tôi nhủ thầm thằng này có ăn gan giời mới dám thả nguyên một tiểu đòan Bắc quân. Và tôi hỏi nó về tích ấy.
Nó gật đầu ậm ừ: “Ừ thì kể”. Lại vẫn mửng cũ, lại lơ đãng nhấp một ngụm nhỏ, thằng này diễn xuất hơi nhiều, tôi nghĩ vậy, chỉ thiếu cái ho húng hắng là có bài bản. Rồi thì cóc mở miệng và nó ừ ào như…cho có chuyện vậy thôi:
“…Chuyện cũng chẳng có gì, tao vừa mới đi hành quân về, chưa kịp cởi đôi “bốt-đờ-sô” đã có lệnh họp khẩn. Lệnh lạc mắc dịch gì kệ tía tụi nó, tao tà tà tắm một cái cho đã và nghĩ trong bụng, chuyến này lại bị sài sể nữa vì cú đụng trận vừa rồi, tiểu đòan tao bị một vố nặng, mất hơn chục con. Vào đến phòng họp, tao thấy một đống quan to súng dài, nào đại diện cho sư đòan 5 bộ binh, không đòan 23 chiến thuật thuộc sư đòan III không quân. Có cả mấy tay biệt kích dù với nhóm nha kỹ thuật nữa, họ lon lá cùng mình, tao biết thân biết phận ngồi với tụi quân báo và khí tượng. Sau khi sếp thuyết trình, chấm tọa độ trên bản đồ hành quân, phân phối trách nhiệm từng đơn vị, hết phần ban huấn lệnh, đến màn sếp lớn hỏi có ai théc méc gì chăng? Nực cò một cái là, đơn vị tao không được nhắc nhở đến tên, tao cũng hơi sì nẹc. Tao đâu có quởn ngồi đây nghe mấy thằng khí tượng thì thầm hoặc nghe mấy mấy thằng quân báo hú họa. Mà dại gì mó dế ngựa và tao chỉ biết là đang có đụng trận khỏang từ phi trường sông Bé đến phía tây thị trấn Lộc Ninh, sát biên giới Căm Bốt vậy thôi. Mặc dù là cuộc họp hành quân thu hẹp, nhưng tao thấy mấy ông thần nha kỹ thuật bu ở đấy khí đông, thì cũng đóan chừng, đụng độ cỡ cấp trung đòan trở xuống và không hơn. Chuyện nhỏ mà mày…”.
Nó ngừng lại một chút, đốt điếu thuốc lá rồi lập lòe:
“…Họp xong, tao được được sếp lớn đưa cho cái phong bì lệnh hành quân to tổ chảng, ngòai đóng dấu hai chữ “Tối Mật” đỏ chót, sếp còn nói khi nào ra tới trận địa mới được móc ra xem. Mụ nội cha này chứ! Tao nhủ thầm trong bụng, làm chó gì mà quan trọng dữ thần vậy, cứ như Khổng Minh bầy binh bố trận không bằng, túi da với túi vải buộc giây này kia cho chắc ăn. Sếp còn giữ tao lại dặn dò, kể từ giờ phút này, lệnh ứng chiến 100% và có thể bốc đi bất cứ lúc nào trong đêm. Tao lại nghĩ tiếp, kệ cha chúng nó chứ, hậu cứ còn tới hai tiểu đòan trừ bị lận đang phè cánh nhạn. Mắc mớ chi lại dí tiểu đòan tao. Hay là sếp lớn muốn chơi màn dương đông kích tây, hay khích tướng để tao đái công chuộc tội. Nhưng đến lúc sếp lớn yêu cầu tao, cũng kể từ giờ phút này, không được liên lạc với gia đình, ngay cả điện thọai, tuyệt đối không được tiết lộ một chi tiết nào, thì tao linh tính là có chuyện. Lại chột dạ cứ như sắp hành quân quy mô chiếm…đài phát thanh đến nơi. Dân dù chuyên viên đảo chánh mà mày.
Đứng chào ở thế nghiêm, tao thóang thấy khuôn mặt sếp như bần thần, lo lắng, như muốn nói gì nhưng lại thôi. Vừa quay ra, sếp dặn với theo, trang bị nhẹ, ghé kho vũ khí lấy thêm mìn Claymore và súng phóng lựu M 79 càng nhiều càng tốt và đừng quên trang bị mỗi đứa con thêm chục “trái na” M67, M41. Tao thấy quái, hay là tụi tao đi đóng đồn gác chợ như…nghĩa quân hay địa phương quân đây.
Y như rằng, chiều tối vừa mới ập xuống là tiểu đòan tao được bốc đi ngay tức thì và được thả xuống cánh rừng phía tây thị trấn Lộc Ninh, cửa ngõ qua bên kia biên giới. Trong khi cánh rừng phía đông, pháo 105, 175 ly ì ầm vọng lại, đều đều xa vắng như tiếng chầy giã gạo, hỏa châu le lói, phụt lên một cái rồi tắt ngúm như ma chơi, âm u và lạnh lẽo. Mở lệnh hành quân quân ra thì tụi tao được lệnh án binh bất động, tất cả điện đàm đều được đình chỉ, ngay cả bộ tư lệnh hành quân…Đợi tụi Bắc quân chém vè là “ra- phan”…làm gỏi, mới liếc qua thì thấy ngon như óc chó. Nhưng…”.
Còn Tiếp Phần 2
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo ....
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi..
(thơ Nguyễn Bắc Sơn)
Trong một bữa nhậu quán vắng chiều hôm…
Tôi gặp một thằng Nam Kỳ uống rượu ngọt như bưởi Biên Hòa. Nó uống rất đẹp, khoan thai cầm cái ly tay trái, xoay xoay đưa lên từ từ, điềm đạm từng ngụm nhỏ như cân đo đong đếm. Mép khẽ nhếch lên nhấp một tí, rồi lại thong thả đưa cái ly xuống. Cùng lúc, tay phải nó quẹt cái bật lửa Zippo vào đùi cái “tách” mồi điếu thuốc lá. Lờ đờ nhả khói. Xong từng ấy thủ tục. Bèn lừ đừ nhắp một miếng mồi, đưa cái ly lên ngang miệng và cũng từng động tác chậm chạp ấy, không thừa không thiếu. Mà nó uống thì thần sầu, lặng lờ như một cái bóng, độ này qua độ khác, từ lúc nhập trận đến khi tan hàng, càng uống càng tỉnh, mặt không hề đổi sắc. Chẳng thấy bao giờ nó ôm địa bàn hay cho chó ăn chè, ngồi một chỗ đóng chốt từ lúc tới cho đến khi nửa khuya đèn vàng. Tôi chịu đèn nó nhất ở cái khỏan uống rượu qua sông không màng…vén quần này.
Nó khật khưỡng uống, càng về khuya, hình như càng không mảy may đắm chìm trong thế tục, qua tiếng ồn ào, ngập khói thuốc lá dầy đặc. Và nó bao giờ cũng vậy, khuất nẻo và tĩnh lặng như…Bồ Đề Đạt Ma.
Nó không như mấy tửu đồ khác, rượu vào lời ra, bắng nhắng như nhặng vào cầu tiêu. Nếu nó có phải vén môi cho phải đạo tiêu giao thì cũng ở cái thế chẳng đặng đừng, chừng mực vừa phải. Bao giờ cũng vậy, nheo nheo cái đuôi mắt, buông từng tiếng, giọng trầm và chắc nịch. Nếu tay ngang nào ồn ào quá lắm thì nó chỉ cười mỉm chi, cầm ly rượu, như suy nghĩ và làm một hơi, gắp một miếng mồi, mắt đăm chiêu vẫn nhìn thẳng vào người đối thọai. Nhưng hình như có một chút nào lơ là, buông thả. Qua khuôn mặt phẳng lì, có hơi một chút lợn cợn nét khinh đời khinh bạc.
Quái hơn nữa là: Nó gần như không nói gì về nó.
Trong khi một lũ điếc không sợ súng, thổ ngơi thằng nào cũng gần kho đạn Gò Vấp. Cậu thiếu úy sư đòan 1, mặt búng ra sữa, qua đến Guam lên trung úy, tới camp Pendleton, đặc cách lên đại úy. Khỉ một cái là mỗi lần đổi trại, là mỗi lần đổi quân binh chủng có lửa, như lực lượng đặc biệt chốn biên thùy, hay biệt kích bên kia vĩ tuyến, ông cố nội ai mà mò ra. Nghe tức như bò đá, giữa đám ba quân chẳng lẽ lật tẩy nhau ra, nhờ cậu tí. Cậu chơi khó anh em quá, bộ nghĩa quân với địa phương quân để cho chó gặm à. Chuế hơn nữa, uống thuốc liều và bán trời không văn tự là quan ba tầu bay L 19, ngày 30 tháng Tư đáp máy bay nhấp nhổm xuống xa lộ Biên Hòa, người tình lái xe Honda đuổi theo sau, vèo một cái, đu lên lửng lơ giữa trời như chị James Bond 007. Tôi nghĩ trong đầu, mẹ kiếp, bốc vừa phải thôi quan anh, quan anh lái máy bay như đạp…xích lô không bằng. Một khứa khác nốc một phùa, mặt đỏ như con gà chọi, say men chiến thắng nổ như tạc đạn, miểng văng tứ tung rằng là pilot A 37, lấy máy bay làm quan tài bay, ăn cơm dưới đất làm việc trên trời, cầy mệt nghỉ. Nhưng khứa này thì hết thuốc chữa, tôi muốn chửi thề nhưng cũng ngọng luôn vì như áo liền quần, khứa quên béng nó mất …cái kính cận to tổ bố. Mệt khứa này quá, chịu trời không thấu.
Kẹt một nỗi, cố tật của mấy ông cố nội là hay…quên. Vì rằng phịa quá nhiều rồi nên làm sao…nhớ. Khổ là khổ cho mấy thằng nghe, lúc nào cũng như ở trên trời rơi xuống ấy! Như…lính nhẩy dù vậy!
***
Khỏang thời gian ấy là giữa năm 75 và 80, vừa mới đứt phim, một lũ tụi tôi như những cánh chim tan tác gọi nhau họp đàn. Cứ chiều thứ sáu, đi làm về là tạt qua cái quán nằm ở góc đường, nằm tuốt luốt trong trung tâm thành phố. Thằng nào ra sớm thì ngồi đấy, làm một hai chai dằn bụng cho ấm lòng kẻ tha hương người lữ thứ, nhìn trời nhìn đất, buồn nhiều hơn vui. Càng về chiều, lũ trôi sông lạc chợ ới nhau tới càng ngày càng đông, quán mì hủ tiếu do anh Tầu Chợ Lớn làm chủ, ban ngày ban mặt vắng như chùa Bà Đanh, món nhậu chính danh, danh trấn giang hồ là síu quách. Như một thông lệ bất thành văn, vào độ, mỗi khứa thay nhau làm một “round” bia, tiền chao cháo múc, ăn nhậu tự nhiên, cười nói vung vít, nước miếng văng mệt nghỉ. Cuối tuần lương, tay nào chịu chơi thì bắt đĩa bò lúc lắc dai như đỉa đói, ai sâm mình lắm thì xách theo một chai rượu mạnh. Và mỗi chai rượu đều có tình sử riêng của nó, vì tất cả nằm trong những ngày tháng chân ướt chân ráo, cùng đất khách quê người, tha hương ngộ cố tri.
Trôi sông lạc chợ và tôi đã gặp nó ở cái quán vắng đìu hiu này.
Nó hơn tôi hai tuổi, tạng người phảng phất như có một cái gì đó hơi khác người qua đôi mắt chìm sâu và nhất là cái miệng uống rượu rất có nét cùng cái cười nhếch mép và…đặc biệt hơn nữa, nó lại chuyên ngành…thợ tiện. Chẳng phải vô tri bất mộ gì, xét nét về cái thằng tôi với quá khứ vị lai thì tôi vốn dĩ là thiếu úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa, sĩ quan biệt phái. Cuốn vó qua đây, xách được cái thẻ quân nhân giữ như giữ mả tổ, lâu lâu lại nhòm tí chơi thấy mặt mày búng ra sữa, chân tay học trò trói gà không chặt. Trong khi khuôn mặt nó có vẻ ngầu hơn, chân tay nó cũng to khỏe hơn. Cho đến lúc tôi biết nó là thiếu tá Dù, như bị tự kỷ ám thị, cái nhìn của tôi về nó lại chệch qua một góc độ khác. Ở cái tuổi tam thập nhi lập, tôi đang tay bồng tay bế nó đã tang bồng hồ thỉ, sách quân xuống đông đông tĩnh, lên đòai đòai tan tự hồi tám kiếp nào rồi. Nói cho cùng thì vàng bạc có giá, rau cá theo buổi chợ, cũng phải né nó một chút chứ, không ít thì nhiều đường đường cũng là tiểu đòan trưởng, giang hồ nửa gánh non sông một chèo. Ấy là chưa tính nhằm vào cái thời buổi láo nháo mới qua đây xin nhận nơi này làm quê hương, lại mới tàn cuộc binh đao, những thiên hùng ca với “con ễnh ương ngồi trong nón sắt” hay “anh còn viên đạn đồng để lại cho em làm kỷ vật cho em” đang vất vưởng đâu đó trong những ngày nhạt nắng. Thế nên mẫu người hùng ngã ngựa của nó rất dễ để tôi yếu lòng và ngưỡng mộ nó trong những ngày vất vưởng ấy.
Càng ngày tôi càng gần gũi nó hơn vì nghe hơi nồi chõ, trên răng dưới lựu đạn, làm được đồng nào là gửi qua trại tị nạn giúp đám đàn em đang nằm ăn vạ ở bên đảo. Tên nào qua được bên này, hay từ tiểu bang khác tới là nó mang về nhà nuôi báo cô. Một lần mò tới căn chung cư của nó, tôi phải bước qua cả ba, bốn cái thân xác nằm ngủ ngổn ngang dưới sàn nhà như chết rồi. Để rồi tôi lại càng mến mộ nó hơn nữa, khi tôi biết nó là dân Võ Bị Đà Lạt khóa 19, sau đấy tôi với nó gần gũi nhau như bóng với hình. Chuyện cũng chẳng có gì lạ, nhiều khi trong cõi người ta, bạn bè thân quen và thân thiết qua một nhân vật thứ ba, ấy là thằng bạn đời của tôi khóa 21 mà nó là huyng trưởng. Mỗi khi nhắc đến thằng bạn chung, giọng nó trầm hẳn xuống, mặt như có hồn, mắt như có khói, bằng vào cái chép miệng: “ Ông thần này cũng bậy thật, khi không rửa chân lên bàn thờ ngồi cho sớm sủa làm chi chẳng biết nữa”.
Sau đấy tôi hay ghé phòng nó “lỳ một lam, làm một ly”. Cùng những ngày tháng qua mau, để rồi ngôn ngữ như cơn nước thủy triều, từ ông tôi qua mày tao lúc nào không hay. Tôi lại càng nghiêng mình “thành kính phân ưu” nó hơn nữa, khi nghe lóang thóang, trong một trận thư hùng với Bắc quân, nó đã đơn phương độc mã, quyết định tha tào một đám tàn binh đào thóat qua bên kia biên giới. Chuyện cứ như thật, nghe như chuyện phong thần, nhưng tôi vẫn chưa có dịp hỏi nó những uẩn khúc bên lề. Ngày rộng tháng dài, tôi rình rình một một ngày nào đó sẽ hỏi cho ra nhẽ.
Tôi cũng chẳng thấy bao giờ nó lận súng trong người. Tôi thì khóai súng, nhất là khẩu Colt 45 của quân đội Đại Hàn, hai cái má cán bằng gỗ vân nâu đỏ, chỉ to bằng ba phần tư khẩu của Mỹ. Mê hơn nữa là cái mầu thép xanh lè và lạnh mát, cầm vừa tay lại nhẹ hều. Tôi muốn thửa khẩu này để góp mặt với đời, phòng khi những lúc tai bay vạ gió. Hỏi nó, nó lắc đầu quầy quậy: “Dẹp đi cha! Bộ cha tính đóng tuồng người hùng cô đơn hả?”. Một lần, hai thằng tôi ngồi ở một cái quán quen dưới phố, không như mọi lần, nó nhè phơi cái lưng như cánh phản ra cửa. Vậy mà nó làm như mả lắm, trong buổi hỗn quân hỗn quan, nhiều lần dậy khôn tôi: Ngồi thì phải trấn ngay lối ra vào, để dễ bề…di tản chiến thuật. Nếu cần kéo cái ghế trống để xéo bên cạnh…như đắp mô. Thủ chai bia không để đấy nằm trong tầm tay, cần lắm thì quăng…lựu đạn. Rồi biến cho nhanh...
Bố khỉ, khôn ba năm dại một giờ, gần khuya bỗng dưng có bốn thằng bung cửa ập vào như gió cuốn, thằng nào thằng nấy chùm mặt kín mít bằng cái vớ đàn bà, súng ống trang bị ngập răng. Thằng chặn cửa, thằng bay vào quầy tính tiền. Hai thằng còn lại chia nhau hai bàn có khứa, tay quơ súng lọan cào cào châu chấu, miệng hò hét lung tung như bị động kinh, nhìn thấy hoa cả mắt, chóng cả mặt như trời sập. Thằng du đãng nhí ào tới bàn tôi, kê súng ngay thái dương nó, vừa quát tháo vừa chửi thề bằng tiếng ta lẫn tiếng tây để áp đảo tinh thần…địch. Tôi nhìn thấy nguyên con cánh tay sâm xanh lòm hình chữ Vạn của nhà Phật. Thằng con dường như lần đầu lâm trận, cái đầu ruồi rung rung thấy rõ. Tôi còn nhớ như in trong đầu với ý nghĩ: Lỡ mà nó cướp cò thì…vỡ mặt. Còn nó tỉnh bơ, khẽ nhích cái đầu sang một bên để tránh nòng súng. Lơ đễnh nhìn thằng du đãng rồi dằn từng tiếng một:
- Mày bắn tao không chết. Mày…chết.
Thằng con khựng lại đến mấy giây, rồi đột nhiên hô hóan ầm ĩ :
- Đủ má…Lộn rồi tụi bay!
Và nó cũng không quên la bải hải:
- Dọt!
Tụi nó quậy um cả lên, rồi đánh mau rút lẹ và thu dọn chiến trường không đầy hai phút phù du. Ít lâu sau, tôi mới biết thằng con tên Vạn, biệt danh là Vạn Việt Cộng,16 tuổi bụi đời đăng lính. Nhưng chưa bắn được một phát súng nào, thay vì nhẩy dù cố gắng, nó…tan hàng cố gắng, chạy theo tiểu đòan khơi khơi leo lên tầu chiến từ Vũng Tầu để lớ ngớ qua cái thành phố này. Mấy tháng sau khỏang 5, 6 giờ sáng. Nó dựng đầu tôi dậy để lái xe vào nhà tù đóng tiền thế chân cho thằng con ra. Chuyện cũng dễ hiểu thôi, thằng con vốn sáng say chiều sỉn, khuya lái lủi vào hàng rào nhà người ta, rồi ngất ngưởng lái xe về với cái số con rệp, để lại…cái bảng số xe ở góc vườn mới điên cái đầu. Chuyện nó cứu bồ cho thằng nhóc cũng dễ hiểu thôi, vì cái tình huyng đệ chi binh, cái thằng con dại cái mang một lần dỡn mặt với nó ấy cũng là dân mũ đỏ. Mỗi lần có ai nhắc đến…sự cố này, nó chỉ nhếch mép: “Chuyện nhỏ, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”.
***
Chiều 30 tháng Tư, nó lôi tôi ra cái quán mới mở gần nhà. Tôi mang cái tháng Tư đen này vào đây để thành chuyện, không phải vì muốn than vắn thở dài cùng ôm mối sầu hòai cố quốc, để mà rối rắm thêm. Mà vì nó ới thì tôi có mặt, bình thường như mọi ngày, chứ chẳng phải làm dáng gì cho bài viết. Xách chai Cognac .75 còn non nửa tới để làm duyên, tôi thấy nó đã ngồi đồng ở đấy, lù lù trên bàn như cái mả Đạm Tiên thêm một chai vàng khè một lít nữa. Tôi nghĩ thầm trong đầu, bỏ mẹ, với mảnh đời rách nát còn lại, từ giờ đến khuya, đại bác không giật 75 đụng với gà cồ 105 gáy cho vài quả thì chỉ có thác, từ chết đến bị thương, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ nên làm nản lòng chiến sĩ cái thằng tôi biết mấy.
Nó ực và chịu nói nhiều hơn mọi khi, nhưng tuyệt không có những chuyện tan hàng lẩm cẩm hay di tản chiến thuật vớ vỉn. Nửa chừng nó luận về chuyện Tam Quốc vì nó chịu ông mặt đỏ râu dài với cây thanh long đao, con ngựa xích thố và cái dũng, cái nhân của ông thần này, hiểu theo nghĩa là không bỏ của chạy lấy người. Chợ chiều vắng khách, bỗng tôi chợt nhớ ra tích Quan Công tha Tào Tháo ở cái chỗ khỉ ho cò gáy nào đó ở tận mãi bên Tầu…Bắt qua chuyện cũ, tôi nhủ thầm thằng này có ăn gan giời mới dám thả nguyên một tiểu đòan Bắc quân. Và tôi hỏi nó về tích ấy.
Nó gật đầu ậm ừ: “Ừ thì kể”. Lại vẫn mửng cũ, lại lơ đãng nhấp một ngụm nhỏ, thằng này diễn xuất hơi nhiều, tôi nghĩ vậy, chỉ thiếu cái ho húng hắng là có bài bản. Rồi thì cóc mở miệng và nó ừ ào như…cho có chuyện vậy thôi:
“…Chuyện cũng chẳng có gì, tao vừa mới đi hành quân về, chưa kịp cởi đôi “bốt-đờ-sô” đã có lệnh họp khẩn. Lệnh lạc mắc dịch gì kệ tía tụi nó, tao tà tà tắm một cái cho đã và nghĩ trong bụng, chuyến này lại bị sài sể nữa vì cú đụng trận vừa rồi, tiểu đòan tao bị một vố nặng, mất hơn chục con. Vào đến phòng họp, tao thấy một đống quan to súng dài, nào đại diện cho sư đòan 5 bộ binh, không đòan 23 chiến thuật thuộc sư đòan III không quân. Có cả mấy tay biệt kích dù với nhóm nha kỹ thuật nữa, họ lon lá cùng mình, tao biết thân biết phận ngồi với tụi quân báo và khí tượng. Sau khi sếp thuyết trình, chấm tọa độ trên bản đồ hành quân, phân phối trách nhiệm từng đơn vị, hết phần ban huấn lệnh, đến màn sếp lớn hỏi có ai théc méc gì chăng? Nực cò một cái là, đơn vị tao không được nhắc nhở đến tên, tao cũng hơi sì nẹc. Tao đâu có quởn ngồi đây nghe mấy thằng khí tượng thì thầm hoặc nghe mấy mấy thằng quân báo hú họa. Mà dại gì mó dế ngựa và tao chỉ biết là đang có đụng trận khỏang từ phi trường sông Bé đến phía tây thị trấn Lộc Ninh, sát biên giới Căm Bốt vậy thôi. Mặc dù là cuộc họp hành quân thu hẹp, nhưng tao thấy mấy ông thần nha kỹ thuật bu ở đấy khí đông, thì cũng đóan chừng, đụng độ cỡ cấp trung đòan trở xuống và không hơn. Chuyện nhỏ mà mày…”.
Nó ngừng lại một chút, đốt điếu thuốc lá rồi lập lòe:
“…Họp xong, tao được được sếp lớn đưa cho cái phong bì lệnh hành quân to tổ chảng, ngòai đóng dấu hai chữ “Tối Mật” đỏ chót, sếp còn nói khi nào ra tới trận địa mới được móc ra xem. Mụ nội cha này chứ! Tao nhủ thầm trong bụng, làm chó gì mà quan trọng dữ thần vậy, cứ như Khổng Minh bầy binh bố trận không bằng, túi da với túi vải buộc giây này kia cho chắc ăn. Sếp còn giữ tao lại dặn dò, kể từ giờ phút này, lệnh ứng chiến 100% và có thể bốc đi bất cứ lúc nào trong đêm. Tao lại nghĩ tiếp, kệ cha chúng nó chứ, hậu cứ còn tới hai tiểu đòan trừ bị lận đang phè cánh nhạn. Mắc mớ chi lại dí tiểu đòan tao. Hay là sếp lớn muốn chơi màn dương đông kích tây, hay khích tướng để tao đái công chuộc tội. Nhưng đến lúc sếp lớn yêu cầu tao, cũng kể từ giờ phút này, không được liên lạc với gia đình, ngay cả điện thọai, tuyệt đối không được tiết lộ một chi tiết nào, thì tao linh tính là có chuyện. Lại chột dạ cứ như sắp hành quân quy mô chiếm…đài phát thanh đến nơi. Dân dù chuyên viên đảo chánh mà mày.
Đứng chào ở thế nghiêm, tao thóang thấy khuôn mặt sếp như bần thần, lo lắng, như muốn nói gì nhưng lại thôi. Vừa quay ra, sếp dặn với theo, trang bị nhẹ, ghé kho vũ khí lấy thêm mìn Claymore và súng phóng lựu M 79 càng nhiều càng tốt và đừng quên trang bị mỗi đứa con thêm chục “trái na” M67, M41. Tao thấy quái, hay là tụi tao đi đóng đồn gác chợ như…nghĩa quân hay địa phương quân đây.
Y như rằng, chiều tối vừa mới ập xuống là tiểu đòan tao được bốc đi ngay tức thì và được thả xuống cánh rừng phía tây thị trấn Lộc Ninh, cửa ngõ qua bên kia biên giới. Trong khi cánh rừng phía đông, pháo 105, 175 ly ì ầm vọng lại, đều đều xa vắng như tiếng chầy giã gạo, hỏa châu le lói, phụt lên một cái rồi tắt ngúm như ma chơi, âm u và lạnh lẽo. Mở lệnh hành quân quân ra thì tụi tao được lệnh án binh bất động, tất cả điện đàm đều được đình chỉ, ngay cả bộ tư lệnh hành quân…Đợi tụi Bắc quân chém vè là “ra- phan”…làm gỏi, mới liếc qua thì thấy ngon như óc chó. Nhưng…”.
Còn Tiếp Phần 2