ĐẦU THÁNG CHẠP NĂM 1983.
Tại một làng chài hẻo lánh bên vàm rạch Tiêu Dừa, thuộc huyện U Minh, nằm sát vịnh Thái Lan vào mùa biển động. Trong một túp lều xiêu vẹo của chú Năm Hớn trở thành địa điểm “ém quân” của 12 người, kể cả ba má tôi và tôi là Tuấn, lúc đó vừa tròn 15 tuổi. Tất cả đều là chiến hữu với ba tôi trước năm 1975, chuẩn bị một cuộc vượt biển đi tìm tự do. Trưa hôm đó, ai nấy đều mang tâm trạng khắc khoải, lo âu vì biển cả thì quá bao la mà những con thuyền vượt biển quá nhỏ bé mong manh; thỉnh thoảng, tôi nhìn ra biển khơi với ánh mắt buâng khuâng đầy lo lắng, bồn chồn nhìn những ngọn sóng hình lưỡi búa cuồn cuộn đuổi nhau ỳ ầm vào bãi bùn. Má tôi ngồi bó gối bên cạnh chái bếp sau hè, tay lần chuỗi hột “mân côi” lâm râm cầu nguyện. Còn ba tôi trải tấm bản đồ trên cái chõng tre, rồi cùng người tài công và một vài người có kinh nghiệm đi biển bàn kế hoạch vượt biển.
Ba tôi lạc quan, nói:
- “Đêm nay, chúng ta rời khỏi nơi nầy. Nếu thuận buồm xuôi gió, sẽ mất khoảng hai ngày, ba đêm thì đến Mã Lai. Cam đoan ghe sẽ tấp vào đất liền khoảng giữa Kota Baharu và Kuala Dungun hoặc xuống chút nữa sẽ đụng Pedang Tioman. Sau đó, mọi người sẽ được đưa đến trại tỵ nạn “Bidong” làm thủ tục, chờ ngày đi định cư ở một nước thứ ba.”
Bác Chín Dần lái tàu nói đùa:
- “Đường biển đến trại tị nạn “Bi Đông”, phải qua “Bi đát” trước. Nhưng, mấy anh cứ tin vào tay nghề của tôi! Lái giang thuyền, chống đặc công thủy Việt Cộng là nghề của tui trước 1975 mà mấy cha! ”
Còn chú Năm Hớn, em họ của ba tôi, thổ địa ở vùng biển nầy. Chú theo nghề biển từ hồi còn trẻ cho đến bây giờ đã ngoài ngũ tuần. Chú Năm ngồi bẹp trên bờ biền, theo dõi những ngọn sóng bạc đầu, lớp sau dồn lớp trước vỗ ầm ầm vào bờ biển. Xế chiều, một cái ráng màu vàng chói chang, pha một chút sắc hồng, bất ngờ xuất hiện ở hướng mặt trời lặn. Trong khoảnh khắc, một dãy mây đen xếp chồng lên nhau như vảy cá, mang hình thù quái vị, từ phía chân trời chầm chậm kéo đến. Màu đen tang tóc, thê lương lấn dần ánh nắng mặt trời. Chú Năm Hớn biến sắc, vội vã đứng dậy đi vào nhà, nhìn mọi người, giọng nghiêm trang, nói:
- “Biển sắp động rồi đó! Chuyến ra khơi dự trù đêm nay, phải hoãn vào một ngày khác thôi!”
Ba tôi nói:
- “Hồi sáng, tôi đã theo dõi bản tin dự báo thời tiết của đài Hà Nội và đài Sài Gòn rồi: không có gió mùa đông bắc, cũng không dự đoán có bão trong vùng vịnh Thái Lan. Biển chỉ động một chút thôi mà, chú Năm!”
- “Anh tin đài, chớ không tin tôi! Thôi, cũng được,” giọng chú Năm Hớn có vẻ trách móc. “Nhưng, theo kinh nghiệm nghề đi biển cho tôi biết rằng: mỗi lần con ráng màu vàng pha lẫn sắc hồng và những đám mây đen xếp chồng lên nhau hình vảy cá xuất hiện ở chân trời là đêm nay, hoặc trể lắm tối mai, sẽ có giông bão nổi lên cho mà coi!”
Bác Chín Dần đề nghị:
- “Anh Năm ra ngoài bãi biển với tôi. Còn anh em nên ở lại trong nhà tránh tàu tuần dương của bọn Việt Cộng quan sát từ xa!”
Cả hai vừa rời nhà ra bãi biển. Mọi người lo lắng hỏi ba tôi:
- “Anh Năm Hớn nói như vậy đó! Anh tính sao đây, xếp?”
- “Mình chờ họ vô, bàn lại thật kỹ rồi biểu quyết! Đi hay hoãn lại tùy theo ý kiến của đa số!”
Khoảng nửa giờ sau, hai người trở vô nhà. Bác Chín Dần vẫn lạc quan, nói:
- “Theo tôi, biển chỉ động một tí thôi! Những ngọn sóng bạc đầu chiều nay cũng giống như ngày hôm qua. Biển trở dòng thôi mà! Bây giờ chưa tới 4 giờ chiều. Nếu từ đây đến chạng vạng mà triều cường tiếp tục dữ dội hơn, chúng ta sẽ bàn lại để lấy quyết định sau cùng,” bác tài công nhìn mọi người, hỏi. “Ý kiến anh em như thế nào?”
Mọi người đều đồng ý với bác Chín Dần, và nhìn ra biển hồi hộp, chờ đợi cơn thịnh nộ của biển cả. Nhưng, khoảng 2 giờ sau. Những cơn sóng bạc đầu tràn qua bờ kè đá, lấn vào hàng dừa trên bờ biển thì bỗng dịu dần lại. Sóng trở mình vỗ lao xao vào bãi biển . Mọi người thở phào nhẹ nhõm, trừ chú Năm Hớn lòng vẫn nặng trĩu lo âu. Má tôi lo bữa cơm chiều cho mọi người sớm hơn để chuẩn bị lên đường.
Khoảng 8 giờ đêm. Con trăng hạ tuần cong như cái lưỡi liềm tỏa ánh sáng lờ mờ trên mặt biển tĩnh lặng. Chú Năm Hớn móc cây đèn bão vào cây sào tre, rồi vác ra ngoài bãi biển. Chú cắm cây sào tre trên bãi, ngồi bẹp xuống bãi cát, ngó ra biển khơi chờ đợi ai đó.
Hai giờ sau. Một chiếc tàu đánh cá xuất hiện ngoài khơi, cách bờ biển khoảng trên 200 thước. Ánh đèn pin lóe lên trước mũi tàu, chớp tắt 4 lần. Chú Năm Hớn đứng dậy, lấy cây đèn bão quét qua, quét lại vài lần, cho biết đã nhận được ám hiệu, rồi quày quả trở vào trong nhà báo tin cho mọi người lên đường. Tôi âm thầm theo đoàn người đi ra vàm rạch Tiêu Dừa. Tôi được ba má đở lên một chiếc ghe tam bản trước; sau đó, mọi người lần lượt leo lên ghe và chui vào trong khoang. Chú Năm Hớn cho nổ cái máy “đuôi tôm”, chiếc ghe tam bản cất mũi, lướt ra ngoài khơi. Khoảng 10 phút sau, chiếc chiếc ghe cập sát vào tàu vượt biển. Đó là một tàu đánh cá đã được tân trang lại, chiều dài khoảng 14 thước, trang bị bởi một máy “lốc 8” loại 50 mã lực và một cột buồm cao khoảng 5, 6 để tăng cường sức gió. Người lái tàu là chú Sáu Báu, em ruột của chú Năm Hớn. Chờ cho mọi người vào trong cabin, chú Sáu báo cáo vắn tắt với cho ba tôi:
- “Tất cả chi phí cho chiếc tàu nầy, tổng cộng là 12 cây vàng. Hai thùng phuy loại 200 lít buộc đằng sau lái: một cái chứa nước mưa, một cái chứa dầu. Thức ăn dự trữ gồm mì gói, gạo sấy, cá khô...đủ cho mọi người dùng trong 2 tuần.”
Ba tôi hỏi:
- “Còn phao cứu cấp chú Sáu để đâu?”
- “À, 12 cái ruột xe vespa và cái ống bơm xe đạp, em để dưới khoang chỗ anh ngồi,” chú Sáu lấy 2 cây vàng từ trong túi áo trao cho ba tôi, nói. “Còn dư 2 cây vàng, anh giữ lấy, có khi dùng đến ở trại tị nạn.”
- “Hai cây vàng nầy, tôi biếu chú và chú Năm mỗi người một cây,” ba tôi quay lại nói với mọi người. “Anh em nào còn giữ tiền Hồ, xin đưa lại cho hai chú xài dùm cho.”
Mọi người vét hết tiền Hồ trong túi, tổng cộng cũng được khoảng 5 ngàn đồng. Chú Năm Hớn và chú Sáu Báu nhận tiền và vàng mừng lắm. Bác Chín Dần và ba tôi leo lên phòng lái trên mui tàu nhận tay lái và cho tàu nổ máy. Chú Năm Hớn chúc mọi người thượng lộ bình an, rồi nhảy xuống ghe quay mũi trở vô bờ. Bác Chín Dần cho tàu quay mũi hướng về Mã Lai, xả hết tốc lực...
Má tôi vẫn ngồi ở một gốc khoang, tay lần sâu chuổi “mai côi” tiếp tục cầu nguyện. Còn tôi ngồi bó gối bên cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài biển. Màn đêm mênh mông, mặt biển đen sẫm lại, xôn xao từng cơn sóng nhẹ cuộn mình đuổi nhau; thỉnh thoảng, tôi thấy nhiều ánh đèn của ghe đánh cá nào đó lập lòe trong bóng đêm đang chạy ngược chiều; có lẽ, họ đang hướng vào bờ. Tôi tự hỏi, chắc có điều gì không ổn chăng? Bầu trời đêm vẫn lấp lánh những vì sao làm tôi yên tâm phần nào.
Nhưng, đến khoảng 3 giờ sáng. Tôi đang ngủ chập chờn nửa tỉnh, nửa mê vì say sóng, bỗng nghe tiếng bác Chín Dần từ buồng lái ở trên mui vọng xuống: “Gió mùa đông bắc! Căng buồm lên anh em ơi! Nhanh lên đi!”. Mọi người đang nằm trong khoang ghe chạy ùa ra trước mũi tàu, kéo buồm lên. Buồm căng gió thổi phần phật, kéo chiếc ghe nghiêng một bên, lướt về phía trước với tốc độ khá nhanh. Má tôi vừa pha xong một bình cà phê nóng bảo tôi mang lên mui cho bác Chín Dần và ba tôi uống tỉnh táo để vật lộn với sóng biển trắng đêm nay.
Hình ảnh của bác Chín Dần, người cựu chiến sĩ giang thuyền của QLVNCH, đã đi vào cuộc đời tôi như một dũng sĩ ngoài biển cả. Bác gồng cánh tay, ghì chặt cần lái thật vững chãi, chống chọi với những cơn sóng rọc từ dưới biển cuồn cuộn nỗi lên hai bên mạn tàu, mà đôi mắt của bác không rời mũi tàu, đang cỡi trên những đợt sóng cao nghệu rồi chúi mũi xuống. Tiếng gió gầm thét ghê rợn, cái cột buồm kêu răn rắt, còn chiếc tàu chòng chành hết nghiêng bên nầy rồi nghiêng bên kia, sóng biển giập vào mạn ghe, bắn tung tóe lên cả mui tàu. Tôi gọi ba tôi để lấy bình cà phê nóng, rồi hai tay ôm chặt lấy cây thang gỗ để khỏi ngã bổ nhào xuống biển. Bác Chín Dần hớp xong một ngụm cà phê nóng, vừa vuốt những giọt nước biển bám trên mặt, nói:
- “Chú Năm Hớn nói đúng đó anh! Cái ráng hồi xế chiều đã ám ảnh Năm Hớn suốt buổi chiều. Nó sắp thực sự trở thành cơn ác mộng của anh em mình rồi đó! Kinh nghiệm đi biển của ảnh hơn hẳn chúng mình,” bác Chín Dần chỉ về phía hướng 2 giờ, hỏi. “Anh có thấy ngọn hải đăng, cách mình trên mươi hải lý kia không?”
Ba tôi nói:
- “Thấy rồi, tàu của chúng ta đang trên đường đi dưới quần đảo Nam Du thì phải!” ba tôi hỏi. “Anh tính sao đây anh Chín?”
- “Chúng ta chỉ có hai con đường lựa chọn: chạy vào đảo để tránh bảo; có thể, chúng mình sẽ bị bọn cộng sản kết tội phản quốc và chui đầu vào trại tù cải tạo một lần nữa; hay là, liều mạng tiếp tục cuộc hành trình, cố vượt qua khỏi “mắt bão” càng xa càng tốt. Cơ may sống sót chỉ có 20%. Không phải tôi bất tài, nhưng chiếc ghe nầy quá mong manh. Nhưng, tôi sẽ cố gắng hết mình. Sống chết do phần số! Tôi sẽ làm theo ý kiến của đa số anh em.”
- “Anh đoán mấy giờ cơn bão sẽ ập xuống, khoảng cấp mấy?”
- “Trể lắm là trước rạng đông thôi! Gió giật có thể lên đến cấp 9, 10!”
- “Tôi hiểu ý anh rồi!”
Tôi ôm cầu thang tuột xuống, chui vào trong cabin trước, nhường chỗ cho ba tôi. Sau khi tập hợp anh em lại, trình bày vắn tắt ý định của bác Chín Dần. Ba tôi hỏi ý kiến tập thể: “Anh em nào muốn tiếp tục cuộc hành trình thì đưa tay lên!”. Trừ má tôi và tôi. Tám cánh tay cương quyết đưa lên. Ông Hai Mãnh - người lính già nhất - đại diện anh em, phát biểu ý kiến:
- “Chúng tôi chấp nhận thử thách đi vào cõi chết để tìm cái sống. Thà chết trong “tự do” giữa biển khơi, còn hơn chết dần mòn vì bị cực hình, đầy đọa trong ngục tù của bọn Cộng sản tàn bạo!”
- “Tốt! Tôi hoàn toàn đồng ý với tất cả đa số anh em!”
Ba tôi vội vã chui ra khỏi khoang, leo lên buồng lái trên mui, gặp bác Chín Dần khoảng 15 phút, rồi xuống phân công cho mọi người chuẩn bị đấu vật với bão tố: bôm hơi vào 12 cái ruột xe vespa để làm phao cứu cấp. Lấy nước ngọt từ trong thùng phuy, dự trử trong các bình nhựa vừa đủ dùng trong một thời gian đôi ba ngày, rồi vất thùng phuy xuống biển cho tàu nhẹ bớt trọng lượng, sẵn sàng đương đầu sóng to gió lớn.
Khoảng 5 giờ sáng. Sóng biển giập vào mạn tàu thật dữ dội, văng tung tóe vào trong cabin. Cơn mưa bão với gió cấp 10 đã ập tới, gió bắt đầu rít từng cơn trên mui, tiếng gió hú lồng lộn ngoài biển khơi vọng về như tiếng réo gọi của tử thần, nghe thật rùng rợn. Chiếc tàu bị sóng nhồi, chao đảo dữ dội làm tôi lại lên cơn say sóng, ói mửa tới mật xanh thêm một chập nữa. Tôi nằm bẹp dí xuống khoang tàu, co quắp trong cái mền, run lên từng cơn vì lạnh và sợ khi nghe tiếng sóng biển vỗ ầm ầm. Tôi có cảm tưởng, sóng xô dạt con tàu quay mũi về một hướng khác, đẩy nó dựng đứng lên rồi kéo xuống vực, làm tôi thót cả ruột gan. Nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, tôi nhìn thấy ngọn sóng lưỡi búa dữ tợn dựng thành những bức tường nước cao trên 5, 6 thước như muốn cuốn tròn con tàu. Chỉ có tôi và mẹ ở lại trong khoang tàu, hai tay bấu chặt vào mạn tàu để không lăn quay long lóc.
Tiếng gầm thét của đại dương trong cơn thịnh nộ cũng không sao át nổi tiếng thét của ông Hai Mãnh trước khi bị sóng và gió bão thổi bay xuống biển: “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!”. Người lính VNCH năm xưa đã mang Tổ Quốc vào lòng trước khi ra trận, họ đã thanh thản mang Tổ Quốc vào lòng, làm hành trang cuối cùngï để âm thầm đi vào lòng biển cả...
Tôi thực sự kinh hoảng thấy ánh đèn pha từ mui tàu quét qua khung cửa sổ, hất xuống biển. Má tôi quăng một cái phao cứu cấp về phía tôi bảo: “Tuấn! Mang phao cứu cấp vào người ngay đi! Coi chừng tàu bị sóng lật úp bây giờ đó con ơi! ”. Đó là tiếng nói cuối cùng của mẹ tôi. Bi kịch đắm tàu trên đại dương bao la như một cuốn phim nghẹt thở quay với tốc độ nhanh. Con tàu vượt biển mong manh giờ như một chiếc lá úa quay cuồn trong vòng nước xoáy với tốc độ kinh hồn, chực kéo nó xuống đáy biển. Và tiếng ai đó la thất thanh đằng mũi tàu: “Mũi tàu bể rồi! Cột buồm sắp gẫy rồi anh em ơi!”. Cơn gió cấp 10 liên tiếp giật đến, bứng cái buồng lái rời khỏi cabin, quăng xuống biển. Một con sóng lưỡi búa biến thành cột nước hung bạo, nó đẩy con tàu dựng đứng lên lần cuối cùng, trước khi cuốn nó lại, vùi xuống đáy biển. Tôi ngước mặt nhìn lên, chỉ kịp nhìn thấy một một khối nước biển khổng lồ từ trên trời đổ ập xuống, giập thân con tàu vỡ ra từng mảnh. Một vật gì đó ngã xuống, va vào đầu tôi một cái thật mạnh - có thể là cái cột buồm đã gẫy - làm tôi ngất đi, mất hết ý niệm về không gian và thời gian, phó mặc cho sóng biển cuốn trôi đi với cái phao cứu cấp nhỏ nhoi trên người...
*
Tôi không biết đã ngất đi từ bao lâu và sóng biển vô tình đã đẩy đưa về đâu. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên một bãi cát trắng của một hòn đảo xa xôi nào đó, dưới ánh nắng mặt trời chói chang và một nửa thân mình còn nổi phập phều trên mặt nước nhờ cái phao cứu cấp. Tôi thu hết sức tàn, cố xoay người lại để trườn lên bờ, tôi giẫy giụa một cách tuyệt vọng vì tay chân bị co rút lại, mấy ngón tay bất lực bấu trên mặt cát. Sóng biển muốn kéo trở lại biển cả một lần nữa, nước biển leo lên lên tận cổ và tràn vào mũi làm tôi sặc sụa. Cái bản năng sanh tồn thúc đẩy tôi làm một động tác cuối cùng trước khi xuôi tay trước định mệnh. Tôi ngước đầu lên khỏi mặt nước cố gào lên một cách tuyệt vọng: “Cứu tôi với!”. Những âm thanh phát ra thều thào như một người hấp hối vì tuyến nước bọt đã đặc quánh, cổ họng khô khốc...Tôi cố nhướng đôi mắt thất thần, nhìn khoảng trời xanh bao la lờ mờ một lần cuối, trước khi trôi theo sóng biển... bỗng tôi cảm thấy thân mình được ai đó nhấc bổng lên khỏi mặt nước, rồi tôi lại ngất đi một lần nữa vì kiệt sức.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình được quấn kỹ trong một cái mền bông và ngửi thấy mùi dầu nóng pha lẫn với mùi khói bốc ra từ củi đốt, tỏa ra từ dưới gầm cái chõng tre chỗ tôi đang nằm. Tôi cảm thấy ấm áp chi lạvà bụng đói cồn cào. Tôi khẻ cử động mấy ngón tay và từ từ nhấc hai cánh tay để lên ngực một cách dễ dàng. Tôi nhẹ nhàng trở mình làm cái chõng tre rung rinh, kêu cọt kẹt. Dưới ánh lửa bếp lung linh, một người bạn trẻ giật mình, quay đầu lại nhìn tôi, mừng rỡ kêu lên:
- “Bác Tám ơi! Nó tỉnh dậy rồi!”
Anh ta đứng dậy, chạy đến bên cái chõng, đặt bàn tay ấm áp lên trán tôi, cười nói:
- “Trán của mầy ấm lại rồi,” anh ta hỏi. “Tao cho mầy ăn vài múi quít nghe! Môi mầy còn nhợt nhạt, khô quá đi!”
Tôi níu tay anh ta lại, ngạc nhiên, hỏi:
- “Sao anh biết tên tôi là Tuấn hả?”
Anh ta không trả lời mà thò tay vào trong túi áo bà ba, lấy ra một trái quít đã lột vỏ sẵn, tách nó ra làm đôi. Anh ta lấy một múi quít đưa lên môi, cắn nhẹ vào đầu múi cho nước ngọt trào ra, rà vào đôi môi nứt nẻ của tôi. Tôi liếm những múi quít vừa mát, vừa ngọt trên đôi môi khô và tôi tỉnh lại dần dần.
Một người đàn ông ngoài ngũ tuần nhưng vẫn còn quắc thước, dáng đi nhanh nhẹn, từ ngoài sân bước vào, đến bên cạnh tôi, nhắc chừng anh ta:
- “Con cho cháu Tuấn ăn một vài múi vừa đủ thấm giọng, trơn cổ thôi. Bao tử của cậu ấy còn trống và yếu lắm đó, Yên à!”
- “Thưa bác, con biết rồi!”
Tôi thắc mắc nhìn ông ta, hỏi:
- “Sao bác và bạn nầy đây biết tên cháu là Tuấn vậy?”
- “Cái quần đùi của cháu đã có ghi đầy đủ lý lịch và những địa chỉ cần thiết để cháu liên lạc với gia đình ở bên Mỹ và Việt Nam. Cháu quên rồi à?” ông ta bật cười, nói. “Bộ đồ bà ba của cháu đang mặc tạm trong người là của thằng Yên đó!”
Tôi nắm lấy bàn tay gân guốc của bác, nói:
- “Cám ơn bác và anh bạn Yên đã cứu mạng cháu!”
- “Ơn nghĩa gì cháu! Bổn phận của tôi mà!” ông ta quay sang nhìn Yên, hỏi. “Nồi cháo chín chưa vậy?”
Bạn Yên đáp:
- “Dạ, sắp chín rồi!”
Ông dặn dò cháu, trước khi quay lưng trở ra ngoài cửa:
- “Đút cho cậu Tuấn ăn từ từ thôi nghe, cháu! Đừng cho ăn no lắm!”
Bốn hôm sau. Tôi hồi phục dần dần và có thể đi lại quanh quẩn trong nhà. Trong lúc họ đi vắng, tôi đi ra ngoài bãi biển một mình vào buổi hoàng hôn. Mặt trời đỏ rực từ từ chìm xuống dưới đường chân trời để lại một vầng ánh sáng đỏ rực trên mặt biển bao la. Màn đêm mông lung sẫm lại dần, từng cơn sóng nhẹ xôn xao đuổi nhau chạy vào bãi cát trắng xóa. Có thể nào, đại dương hiền hòa như thế, mà cách đây mấy hôm, biển nỗi cơn thịnh nộ, giống như chảo nước sôi khổng lồ sôi sục, rồi biến thành những đợt sóng lưỡi búa cuồn cuộn dâng lên cao bằng tòa nhà 4, 5 từng lầu, nhận chìm, quét sạch tất cả mọi vật trên đường đi của nó.
Trên bầu trời cao thăm thẳm, một cánh chim hải âu lạc loài, sải đôi cánh bay vào vùng bay vùng biển tĩnh lặng, rơi rớt lại phía sau là những tiếng kêu buồn thảm, làm tôi bỗng thương cha nhớ mẹ vô cùng. Không biết số phận của ba má tôi giờ nầy ra sao, sống chết thế nào? Tôi vùng đứng dậy, chạy dọc theo bờ biển, vừa gào lên thất thanh: “Ba ơi! Má ơi!...” Nhưng, tôi chỉ nghe tiếng dội của chính mình từ ngoài khơi vọng lại một cách tàn nhẫn. Tôi chỉ còn đủ hơi sức chạy được vài mươi thước rồi ngả quỵ trên bãi cát, ôm mặt khóc nức nở. Bạn Yên từ đâu chạy đến, quỳ xuống bên cạnh tôi. Anh ta thấy tôi ôm mặt khóc, cũng khóc theo, rồi mếu máo nói:
- “Tao cũng mồ côi cha mẹ như mầy, Tuấn ơi!”
Tôi gạt nước mắt, hỏi nó:
- “Ba má anh cũng chết ngoài biển như bá má của tôi?”
- “Không, tía má tao bị người ta giết!”
- “Ai giết?”
- “Bác Tám giết, rồi ông ấy mang tao ra hòn đảo hoang nầy dạy dỗ tao nên người!”
- “Tại sao bác Tám lại giết ba má của anh chớ?”
- “Tao thường nghe bác Tám thường hay lẩm bẩm một mình: “Tôi giết tía má thằng Yên!” Nhưng, tao mang ơn bác Tám suốt kiếp! Không có ổng, làm gì tao sống đến ngày hôm nay.” Yên nói.
- “Tôi không hiểu anh nói gì hết! Nhưng thôi, chuyện của anh!” tôi hỏi. “Đảo nầy tên gì, ở đâu?”
- “Đảo nầy nhiều san hô lắm nên tao gọi là đảo “San Hô”, còn bác tao gọi là đảo “Sám Hối”, vì đảo nầy không có tên trong vùng biển nầy.”
- “Đảo nầy là hoang đảo, phải không anh?” tôi hỏi.
- “Không hẳn vậy đâu! Khi bác đưa tao đến đảo nầy, đã có mươi gia đình chài lưới ở phía sau đảo. Nhưng cách đây vài năm, một đợt sóng thần khổng lồ bốc lên khỏi bờ biển, bất ngờ ập đến làng chài vào lúc nửa đêm, cuốn cả làng ra biển. Từ đó, không có ai léo hánh đến đảo nầy nửa.” Yên đứng dậy, nói. “Thôi, mình về nhà. Tao nướng tôm hùm cho mầy ăn.”
Anh Yên nắm tay tôi trở về bãi biển trước nhà. Chúng tôi ngồi dưới hàng dừa cong vút, những tàu lá nhuộm vàng ánh trăng nhợt nhạt, xào xạt đón gió đêm sương. Bạn Yên chạy vào trong nhà lấy một cái mền quàng lên người tôi, rồi bắt đầu nhốm lửa. Những thanh củi từ từ đượm lên ngọn lửa sáng rực, nhưng ít bốc khói, hơi nóng tỏa ra thật ấm áp. Tôi chà xát hai bàn tay trên ngọn lửa rồi áp vào mặt mình, cảm thấy thật dễ chịu. Còn Yên đứng dậy, đi ra bãi biển, kéo cái lọp bằng tre đan từ dưới mặt biển lên, rồi đi trở lại, ngồi đối diện với tôi. Anh ta thò tay vô trong lọp bắt ra hai con tôm hùm xanh, vỏ lốm đốm trắng, sức nặng mỗi con trên một kí lô chớ không ít. Yên lấy cây neo là một que thép nhỏ, nhọn đầu, dài khoảng 5 tấc dùng để neo cái lọp xuống bãi cát, vừa để lụi tôm hùm. Tôi cầm một đầu, Yên giữ một đầu xoay đi, xoay lại cho đến khi vỏ hai con tôm hùm trở thành màu đỏ hồng. Thỉnh thoảng, nước từ mình con tôm hùm rỉ ra từng giọt, rơi xuống than hồng, phát ra những kêu xèo xèo. Tôm hùm nướng trên bãi biển vừa thổi vừa lột vỏ, nóng gần phỏng tay. Tôi đưa con tôm lên miệng xé một miếng nhỏ, nhai ngấu nghiến, thịt tôm ngon ngọt làm sao.
Tôi hỏi:
- “Bác Tám biến đi đâu từ chiều hôm qua, cho đến bây giờ chưa thấy ổng trở về nhà vậy, anh Yên?”
- “Ổng đi tìm vớt xác người vượt biển!” Yên nói. “Sau những ngày biển động, bác Tám không đi biển săn cá mập, chỉ đi quanh quẩn chung quanh đảo suốt ngày để cứu thuyền nhân bị đắm tàu hoặc vớt xác họ về chôn cất.”
- “Mong cho ông gặp được ba má của tôi!” trong đầu tôi lóe sáng niềm hy vọng dù mong manh, tôi hỏi. “Đảo nầy có lớn lắm không?”
- “Chỉ đi bộ một ngày là giáp một vòng đảo,” anh ta nói. “Bao giờ mầy khỏe hẳn, tao sẽ dẫn mầy đi một vòng đảo cho biết! Thôi, tụi mình vào nhà ngủ đi, Tuấn!”
Tôi bước vào nhà, khép cánh cửa lại tránh gió lùa vào, rồi ngả mình lên cái chõng tre, mệt mỏi ngủ thiếp đi vào lúc nào cũng không hay...cho đến khi một bàn tay ấm áp đặt lên trán tôi làm tôi giật mình mở bừng mắt ra thì trời đã sáng bửng. Bác Tám ngồi bên cạnh cái chõng, ôn tồn hỏi:
- “Trên chuyến tàu vượt biển của cháu, ngoài mẹ cháu ra, còn có người đàn bà nào khác nữa không?”
Tôi trả lời:
- “Dạ, chỉ có một mình mẹ con thôi!”
- “Thôi, như vậy là đúng rồi,” bác thở dài, tiếp. “Mẹ con đã chết rồi!”
Tôi ngỡ ngàng, hỏi:
- “Tại sao bác biết chắc như vậy?”
Ông ta nói:
- “Dậy đi! Ra ngoài sân, bác chỉ cho cháu xem vật nầy.”
Thấy tôi theo bác ra ngoài sân, Yên cũng ngồi dậy cùng đi ra ngoài. Trên sân, một cột buồm đã gẫy với tấm vải buồm bị cắt xén một góc và một cái phao cấp cứu bằng ruột xe vespa. Bác lấy một xâu chuỗi “mai côi” trong túi áo ra, đưa cho tôi, nói:
- “Bác đã tìm thấy vật nầy đeo trên cổ xác chết của một phụ nữ khoảng ngoài 40 tuổi, trôi tấp vào bãi biển phía Nam đảo cùng với cột buồm đã gẫy,” bác thở dài, nói. “Vì thân thể ngâm dưới lâu ngày đã biến thành dị dạng, nên ông đã cắt vải buồm để liệm bà và chôn trong nghĩa trang dưới chân đồi gần đây thôi!”
Tại một làng chài hẻo lánh bên vàm rạch Tiêu Dừa, thuộc huyện U Minh, nằm sát vịnh Thái Lan vào mùa biển động. Trong một túp lều xiêu vẹo của chú Năm Hớn trở thành địa điểm “ém quân” của 12 người, kể cả ba má tôi và tôi là Tuấn, lúc đó vừa tròn 15 tuổi. Tất cả đều là chiến hữu với ba tôi trước năm 1975, chuẩn bị một cuộc vượt biển đi tìm tự do. Trưa hôm đó, ai nấy đều mang tâm trạng khắc khoải, lo âu vì biển cả thì quá bao la mà những con thuyền vượt biển quá nhỏ bé mong manh; thỉnh thoảng, tôi nhìn ra biển khơi với ánh mắt buâng khuâng đầy lo lắng, bồn chồn nhìn những ngọn sóng hình lưỡi búa cuồn cuộn đuổi nhau ỳ ầm vào bãi bùn. Má tôi ngồi bó gối bên cạnh chái bếp sau hè, tay lần chuỗi hột “mân côi” lâm râm cầu nguyện. Còn ba tôi trải tấm bản đồ trên cái chõng tre, rồi cùng người tài công và một vài người có kinh nghiệm đi biển bàn kế hoạch vượt biển.
Ba tôi lạc quan, nói:
- “Đêm nay, chúng ta rời khỏi nơi nầy. Nếu thuận buồm xuôi gió, sẽ mất khoảng hai ngày, ba đêm thì đến Mã Lai. Cam đoan ghe sẽ tấp vào đất liền khoảng giữa Kota Baharu và Kuala Dungun hoặc xuống chút nữa sẽ đụng Pedang Tioman. Sau đó, mọi người sẽ được đưa đến trại tỵ nạn “Bidong” làm thủ tục, chờ ngày đi định cư ở một nước thứ ba.”
Bác Chín Dần lái tàu nói đùa:
- “Đường biển đến trại tị nạn “Bi Đông”, phải qua “Bi đát” trước. Nhưng, mấy anh cứ tin vào tay nghề của tôi! Lái giang thuyền, chống đặc công thủy Việt Cộng là nghề của tui trước 1975 mà mấy cha! ”
Còn chú Năm Hớn, em họ của ba tôi, thổ địa ở vùng biển nầy. Chú theo nghề biển từ hồi còn trẻ cho đến bây giờ đã ngoài ngũ tuần. Chú Năm ngồi bẹp trên bờ biền, theo dõi những ngọn sóng bạc đầu, lớp sau dồn lớp trước vỗ ầm ầm vào bờ biển. Xế chiều, một cái ráng màu vàng chói chang, pha một chút sắc hồng, bất ngờ xuất hiện ở hướng mặt trời lặn. Trong khoảnh khắc, một dãy mây đen xếp chồng lên nhau như vảy cá, mang hình thù quái vị, từ phía chân trời chầm chậm kéo đến. Màu đen tang tóc, thê lương lấn dần ánh nắng mặt trời. Chú Năm Hớn biến sắc, vội vã đứng dậy đi vào nhà, nhìn mọi người, giọng nghiêm trang, nói:
- “Biển sắp động rồi đó! Chuyến ra khơi dự trù đêm nay, phải hoãn vào một ngày khác thôi!”
Ba tôi nói:
- “Hồi sáng, tôi đã theo dõi bản tin dự báo thời tiết của đài Hà Nội và đài Sài Gòn rồi: không có gió mùa đông bắc, cũng không dự đoán có bão trong vùng vịnh Thái Lan. Biển chỉ động một chút thôi mà, chú Năm!”
- “Anh tin đài, chớ không tin tôi! Thôi, cũng được,” giọng chú Năm Hớn có vẻ trách móc. “Nhưng, theo kinh nghiệm nghề đi biển cho tôi biết rằng: mỗi lần con ráng màu vàng pha lẫn sắc hồng và những đám mây đen xếp chồng lên nhau hình vảy cá xuất hiện ở chân trời là đêm nay, hoặc trể lắm tối mai, sẽ có giông bão nổi lên cho mà coi!”
Bác Chín Dần đề nghị:
- “Anh Năm ra ngoài bãi biển với tôi. Còn anh em nên ở lại trong nhà tránh tàu tuần dương của bọn Việt Cộng quan sát từ xa!”
Cả hai vừa rời nhà ra bãi biển. Mọi người lo lắng hỏi ba tôi:
- “Anh Năm Hớn nói như vậy đó! Anh tính sao đây, xếp?”
- “Mình chờ họ vô, bàn lại thật kỹ rồi biểu quyết! Đi hay hoãn lại tùy theo ý kiến của đa số!”
Khoảng nửa giờ sau, hai người trở vô nhà. Bác Chín Dần vẫn lạc quan, nói:
- “Theo tôi, biển chỉ động một tí thôi! Những ngọn sóng bạc đầu chiều nay cũng giống như ngày hôm qua. Biển trở dòng thôi mà! Bây giờ chưa tới 4 giờ chiều. Nếu từ đây đến chạng vạng mà triều cường tiếp tục dữ dội hơn, chúng ta sẽ bàn lại để lấy quyết định sau cùng,” bác tài công nhìn mọi người, hỏi. “Ý kiến anh em như thế nào?”
Mọi người đều đồng ý với bác Chín Dần, và nhìn ra biển hồi hộp, chờ đợi cơn thịnh nộ của biển cả. Nhưng, khoảng 2 giờ sau. Những cơn sóng bạc đầu tràn qua bờ kè đá, lấn vào hàng dừa trên bờ biển thì bỗng dịu dần lại. Sóng trở mình vỗ lao xao vào bãi biển . Mọi người thở phào nhẹ nhõm, trừ chú Năm Hớn lòng vẫn nặng trĩu lo âu. Má tôi lo bữa cơm chiều cho mọi người sớm hơn để chuẩn bị lên đường.
Khoảng 8 giờ đêm. Con trăng hạ tuần cong như cái lưỡi liềm tỏa ánh sáng lờ mờ trên mặt biển tĩnh lặng. Chú Năm Hớn móc cây đèn bão vào cây sào tre, rồi vác ra ngoài bãi biển. Chú cắm cây sào tre trên bãi, ngồi bẹp xuống bãi cát, ngó ra biển khơi chờ đợi ai đó.
Hai giờ sau. Một chiếc tàu đánh cá xuất hiện ngoài khơi, cách bờ biển khoảng trên 200 thước. Ánh đèn pin lóe lên trước mũi tàu, chớp tắt 4 lần. Chú Năm Hớn đứng dậy, lấy cây đèn bão quét qua, quét lại vài lần, cho biết đã nhận được ám hiệu, rồi quày quả trở vào trong nhà báo tin cho mọi người lên đường. Tôi âm thầm theo đoàn người đi ra vàm rạch Tiêu Dừa. Tôi được ba má đở lên một chiếc ghe tam bản trước; sau đó, mọi người lần lượt leo lên ghe và chui vào trong khoang. Chú Năm Hớn cho nổ cái máy “đuôi tôm”, chiếc ghe tam bản cất mũi, lướt ra ngoài khơi. Khoảng 10 phút sau, chiếc chiếc ghe cập sát vào tàu vượt biển. Đó là một tàu đánh cá đã được tân trang lại, chiều dài khoảng 14 thước, trang bị bởi một máy “lốc 8” loại 50 mã lực và một cột buồm cao khoảng 5, 6 để tăng cường sức gió. Người lái tàu là chú Sáu Báu, em ruột của chú Năm Hớn. Chờ cho mọi người vào trong cabin, chú Sáu báo cáo vắn tắt với cho ba tôi:
- “Tất cả chi phí cho chiếc tàu nầy, tổng cộng là 12 cây vàng. Hai thùng phuy loại 200 lít buộc đằng sau lái: một cái chứa nước mưa, một cái chứa dầu. Thức ăn dự trữ gồm mì gói, gạo sấy, cá khô...đủ cho mọi người dùng trong 2 tuần.”
Ba tôi hỏi:
- “Còn phao cứu cấp chú Sáu để đâu?”
- “À, 12 cái ruột xe vespa và cái ống bơm xe đạp, em để dưới khoang chỗ anh ngồi,” chú Sáu lấy 2 cây vàng từ trong túi áo trao cho ba tôi, nói. “Còn dư 2 cây vàng, anh giữ lấy, có khi dùng đến ở trại tị nạn.”
- “Hai cây vàng nầy, tôi biếu chú và chú Năm mỗi người một cây,” ba tôi quay lại nói với mọi người. “Anh em nào còn giữ tiền Hồ, xin đưa lại cho hai chú xài dùm cho.”
Mọi người vét hết tiền Hồ trong túi, tổng cộng cũng được khoảng 5 ngàn đồng. Chú Năm Hớn và chú Sáu Báu nhận tiền và vàng mừng lắm. Bác Chín Dần và ba tôi leo lên phòng lái trên mui tàu nhận tay lái và cho tàu nổ máy. Chú Năm Hớn chúc mọi người thượng lộ bình an, rồi nhảy xuống ghe quay mũi trở vô bờ. Bác Chín Dần cho tàu quay mũi hướng về Mã Lai, xả hết tốc lực...
Má tôi vẫn ngồi ở một gốc khoang, tay lần sâu chuổi “mai côi” tiếp tục cầu nguyện. Còn tôi ngồi bó gối bên cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài biển. Màn đêm mênh mông, mặt biển đen sẫm lại, xôn xao từng cơn sóng nhẹ cuộn mình đuổi nhau; thỉnh thoảng, tôi thấy nhiều ánh đèn của ghe đánh cá nào đó lập lòe trong bóng đêm đang chạy ngược chiều; có lẽ, họ đang hướng vào bờ. Tôi tự hỏi, chắc có điều gì không ổn chăng? Bầu trời đêm vẫn lấp lánh những vì sao làm tôi yên tâm phần nào.
Nhưng, đến khoảng 3 giờ sáng. Tôi đang ngủ chập chờn nửa tỉnh, nửa mê vì say sóng, bỗng nghe tiếng bác Chín Dần từ buồng lái ở trên mui vọng xuống: “Gió mùa đông bắc! Căng buồm lên anh em ơi! Nhanh lên đi!”. Mọi người đang nằm trong khoang ghe chạy ùa ra trước mũi tàu, kéo buồm lên. Buồm căng gió thổi phần phật, kéo chiếc ghe nghiêng một bên, lướt về phía trước với tốc độ khá nhanh. Má tôi vừa pha xong một bình cà phê nóng bảo tôi mang lên mui cho bác Chín Dần và ba tôi uống tỉnh táo để vật lộn với sóng biển trắng đêm nay.
Hình ảnh của bác Chín Dần, người cựu chiến sĩ giang thuyền của QLVNCH, đã đi vào cuộc đời tôi như một dũng sĩ ngoài biển cả. Bác gồng cánh tay, ghì chặt cần lái thật vững chãi, chống chọi với những cơn sóng rọc từ dưới biển cuồn cuộn nỗi lên hai bên mạn tàu, mà đôi mắt của bác không rời mũi tàu, đang cỡi trên những đợt sóng cao nghệu rồi chúi mũi xuống. Tiếng gió gầm thét ghê rợn, cái cột buồm kêu răn rắt, còn chiếc tàu chòng chành hết nghiêng bên nầy rồi nghiêng bên kia, sóng biển giập vào mạn ghe, bắn tung tóe lên cả mui tàu. Tôi gọi ba tôi để lấy bình cà phê nóng, rồi hai tay ôm chặt lấy cây thang gỗ để khỏi ngã bổ nhào xuống biển. Bác Chín Dần hớp xong một ngụm cà phê nóng, vừa vuốt những giọt nước biển bám trên mặt, nói:
- “Chú Năm Hớn nói đúng đó anh! Cái ráng hồi xế chiều đã ám ảnh Năm Hớn suốt buổi chiều. Nó sắp thực sự trở thành cơn ác mộng của anh em mình rồi đó! Kinh nghiệm đi biển của ảnh hơn hẳn chúng mình,” bác Chín Dần chỉ về phía hướng 2 giờ, hỏi. “Anh có thấy ngọn hải đăng, cách mình trên mươi hải lý kia không?”
Ba tôi nói:
- “Thấy rồi, tàu của chúng ta đang trên đường đi dưới quần đảo Nam Du thì phải!” ba tôi hỏi. “Anh tính sao đây anh Chín?”
- “Chúng ta chỉ có hai con đường lựa chọn: chạy vào đảo để tránh bảo; có thể, chúng mình sẽ bị bọn cộng sản kết tội phản quốc và chui đầu vào trại tù cải tạo một lần nữa; hay là, liều mạng tiếp tục cuộc hành trình, cố vượt qua khỏi “mắt bão” càng xa càng tốt. Cơ may sống sót chỉ có 20%. Không phải tôi bất tài, nhưng chiếc ghe nầy quá mong manh. Nhưng, tôi sẽ cố gắng hết mình. Sống chết do phần số! Tôi sẽ làm theo ý kiến của đa số anh em.”
- “Anh đoán mấy giờ cơn bão sẽ ập xuống, khoảng cấp mấy?”
- “Trể lắm là trước rạng đông thôi! Gió giật có thể lên đến cấp 9, 10!”
- “Tôi hiểu ý anh rồi!”
Tôi ôm cầu thang tuột xuống, chui vào trong cabin trước, nhường chỗ cho ba tôi. Sau khi tập hợp anh em lại, trình bày vắn tắt ý định của bác Chín Dần. Ba tôi hỏi ý kiến tập thể: “Anh em nào muốn tiếp tục cuộc hành trình thì đưa tay lên!”. Trừ má tôi và tôi. Tám cánh tay cương quyết đưa lên. Ông Hai Mãnh - người lính già nhất - đại diện anh em, phát biểu ý kiến:
- “Chúng tôi chấp nhận thử thách đi vào cõi chết để tìm cái sống. Thà chết trong “tự do” giữa biển khơi, còn hơn chết dần mòn vì bị cực hình, đầy đọa trong ngục tù của bọn Cộng sản tàn bạo!”
- “Tốt! Tôi hoàn toàn đồng ý với tất cả đa số anh em!”
Ba tôi vội vã chui ra khỏi khoang, leo lên buồng lái trên mui, gặp bác Chín Dần khoảng 15 phút, rồi xuống phân công cho mọi người chuẩn bị đấu vật với bão tố: bôm hơi vào 12 cái ruột xe vespa để làm phao cứu cấp. Lấy nước ngọt từ trong thùng phuy, dự trử trong các bình nhựa vừa đủ dùng trong một thời gian đôi ba ngày, rồi vất thùng phuy xuống biển cho tàu nhẹ bớt trọng lượng, sẵn sàng đương đầu sóng to gió lớn.
Khoảng 5 giờ sáng. Sóng biển giập vào mạn tàu thật dữ dội, văng tung tóe vào trong cabin. Cơn mưa bão với gió cấp 10 đã ập tới, gió bắt đầu rít từng cơn trên mui, tiếng gió hú lồng lộn ngoài biển khơi vọng về như tiếng réo gọi của tử thần, nghe thật rùng rợn. Chiếc tàu bị sóng nhồi, chao đảo dữ dội làm tôi lại lên cơn say sóng, ói mửa tới mật xanh thêm một chập nữa. Tôi nằm bẹp dí xuống khoang tàu, co quắp trong cái mền, run lên từng cơn vì lạnh và sợ khi nghe tiếng sóng biển vỗ ầm ầm. Tôi có cảm tưởng, sóng xô dạt con tàu quay mũi về một hướng khác, đẩy nó dựng đứng lên rồi kéo xuống vực, làm tôi thót cả ruột gan. Nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, tôi nhìn thấy ngọn sóng lưỡi búa dữ tợn dựng thành những bức tường nước cao trên 5, 6 thước như muốn cuốn tròn con tàu. Chỉ có tôi và mẹ ở lại trong khoang tàu, hai tay bấu chặt vào mạn tàu để không lăn quay long lóc.
Tiếng gầm thét của đại dương trong cơn thịnh nộ cũng không sao át nổi tiếng thét của ông Hai Mãnh trước khi bị sóng và gió bão thổi bay xuống biển: “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!”. Người lính VNCH năm xưa đã mang Tổ Quốc vào lòng trước khi ra trận, họ đã thanh thản mang Tổ Quốc vào lòng, làm hành trang cuối cùngï để âm thầm đi vào lòng biển cả...
Tôi thực sự kinh hoảng thấy ánh đèn pha từ mui tàu quét qua khung cửa sổ, hất xuống biển. Má tôi quăng một cái phao cứu cấp về phía tôi bảo: “Tuấn! Mang phao cứu cấp vào người ngay đi! Coi chừng tàu bị sóng lật úp bây giờ đó con ơi! ”. Đó là tiếng nói cuối cùng của mẹ tôi. Bi kịch đắm tàu trên đại dương bao la như một cuốn phim nghẹt thở quay với tốc độ nhanh. Con tàu vượt biển mong manh giờ như một chiếc lá úa quay cuồn trong vòng nước xoáy với tốc độ kinh hồn, chực kéo nó xuống đáy biển. Và tiếng ai đó la thất thanh đằng mũi tàu: “Mũi tàu bể rồi! Cột buồm sắp gẫy rồi anh em ơi!”. Cơn gió cấp 10 liên tiếp giật đến, bứng cái buồng lái rời khỏi cabin, quăng xuống biển. Một con sóng lưỡi búa biến thành cột nước hung bạo, nó đẩy con tàu dựng đứng lên lần cuối cùng, trước khi cuốn nó lại, vùi xuống đáy biển. Tôi ngước mặt nhìn lên, chỉ kịp nhìn thấy một một khối nước biển khổng lồ từ trên trời đổ ập xuống, giập thân con tàu vỡ ra từng mảnh. Một vật gì đó ngã xuống, va vào đầu tôi một cái thật mạnh - có thể là cái cột buồm đã gẫy - làm tôi ngất đi, mất hết ý niệm về không gian và thời gian, phó mặc cho sóng biển cuốn trôi đi với cái phao cứu cấp nhỏ nhoi trên người...
*
Tôi không biết đã ngất đi từ bao lâu và sóng biển vô tình đã đẩy đưa về đâu. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên một bãi cát trắng của một hòn đảo xa xôi nào đó, dưới ánh nắng mặt trời chói chang và một nửa thân mình còn nổi phập phều trên mặt nước nhờ cái phao cứu cấp. Tôi thu hết sức tàn, cố xoay người lại để trườn lên bờ, tôi giẫy giụa một cách tuyệt vọng vì tay chân bị co rút lại, mấy ngón tay bất lực bấu trên mặt cát. Sóng biển muốn kéo trở lại biển cả một lần nữa, nước biển leo lên lên tận cổ và tràn vào mũi làm tôi sặc sụa. Cái bản năng sanh tồn thúc đẩy tôi làm một động tác cuối cùng trước khi xuôi tay trước định mệnh. Tôi ngước đầu lên khỏi mặt nước cố gào lên một cách tuyệt vọng: “Cứu tôi với!”. Những âm thanh phát ra thều thào như một người hấp hối vì tuyến nước bọt đã đặc quánh, cổ họng khô khốc...Tôi cố nhướng đôi mắt thất thần, nhìn khoảng trời xanh bao la lờ mờ một lần cuối, trước khi trôi theo sóng biển... bỗng tôi cảm thấy thân mình được ai đó nhấc bổng lên khỏi mặt nước, rồi tôi lại ngất đi một lần nữa vì kiệt sức.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình được quấn kỹ trong một cái mền bông và ngửi thấy mùi dầu nóng pha lẫn với mùi khói bốc ra từ củi đốt, tỏa ra từ dưới gầm cái chõng tre chỗ tôi đang nằm. Tôi cảm thấy ấm áp chi lạvà bụng đói cồn cào. Tôi khẻ cử động mấy ngón tay và từ từ nhấc hai cánh tay để lên ngực một cách dễ dàng. Tôi nhẹ nhàng trở mình làm cái chõng tre rung rinh, kêu cọt kẹt. Dưới ánh lửa bếp lung linh, một người bạn trẻ giật mình, quay đầu lại nhìn tôi, mừng rỡ kêu lên:
- “Bác Tám ơi! Nó tỉnh dậy rồi!”
Anh ta đứng dậy, chạy đến bên cái chõng, đặt bàn tay ấm áp lên trán tôi, cười nói:
- “Trán của mầy ấm lại rồi,” anh ta hỏi. “Tao cho mầy ăn vài múi quít nghe! Môi mầy còn nhợt nhạt, khô quá đi!”
Tôi níu tay anh ta lại, ngạc nhiên, hỏi:
- “Sao anh biết tên tôi là Tuấn hả?”
Anh ta không trả lời mà thò tay vào trong túi áo bà ba, lấy ra một trái quít đã lột vỏ sẵn, tách nó ra làm đôi. Anh ta lấy một múi quít đưa lên môi, cắn nhẹ vào đầu múi cho nước ngọt trào ra, rà vào đôi môi nứt nẻ của tôi. Tôi liếm những múi quít vừa mát, vừa ngọt trên đôi môi khô và tôi tỉnh lại dần dần.
Một người đàn ông ngoài ngũ tuần nhưng vẫn còn quắc thước, dáng đi nhanh nhẹn, từ ngoài sân bước vào, đến bên cạnh tôi, nhắc chừng anh ta:
- “Con cho cháu Tuấn ăn một vài múi vừa đủ thấm giọng, trơn cổ thôi. Bao tử của cậu ấy còn trống và yếu lắm đó, Yên à!”
- “Thưa bác, con biết rồi!”
Tôi thắc mắc nhìn ông ta, hỏi:
- “Sao bác và bạn nầy đây biết tên cháu là Tuấn vậy?”
- “Cái quần đùi của cháu đã có ghi đầy đủ lý lịch và những địa chỉ cần thiết để cháu liên lạc với gia đình ở bên Mỹ và Việt Nam. Cháu quên rồi à?” ông ta bật cười, nói. “Bộ đồ bà ba của cháu đang mặc tạm trong người là của thằng Yên đó!”
Tôi nắm lấy bàn tay gân guốc của bác, nói:
- “Cám ơn bác và anh bạn Yên đã cứu mạng cháu!”
- “Ơn nghĩa gì cháu! Bổn phận của tôi mà!” ông ta quay sang nhìn Yên, hỏi. “Nồi cháo chín chưa vậy?”
Bạn Yên đáp:
- “Dạ, sắp chín rồi!”
Ông dặn dò cháu, trước khi quay lưng trở ra ngoài cửa:
- “Đút cho cậu Tuấn ăn từ từ thôi nghe, cháu! Đừng cho ăn no lắm!”
Bốn hôm sau. Tôi hồi phục dần dần và có thể đi lại quanh quẩn trong nhà. Trong lúc họ đi vắng, tôi đi ra ngoài bãi biển một mình vào buổi hoàng hôn. Mặt trời đỏ rực từ từ chìm xuống dưới đường chân trời để lại một vầng ánh sáng đỏ rực trên mặt biển bao la. Màn đêm mông lung sẫm lại dần, từng cơn sóng nhẹ xôn xao đuổi nhau chạy vào bãi cát trắng xóa. Có thể nào, đại dương hiền hòa như thế, mà cách đây mấy hôm, biển nỗi cơn thịnh nộ, giống như chảo nước sôi khổng lồ sôi sục, rồi biến thành những đợt sóng lưỡi búa cuồn cuộn dâng lên cao bằng tòa nhà 4, 5 từng lầu, nhận chìm, quét sạch tất cả mọi vật trên đường đi của nó.
Trên bầu trời cao thăm thẳm, một cánh chim hải âu lạc loài, sải đôi cánh bay vào vùng bay vùng biển tĩnh lặng, rơi rớt lại phía sau là những tiếng kêu buồn thảm, làm tôi bỗng thương cha nhớ mẹ vô cùng. Không biết số phận của ba má tôi giờ nầy ra sao, sống chết thế nào? Tôi vùng đứng dậy, chạy dọc theo bờ biển, vừa gào lên thất thanh: “Ba ơi! Má ơi!...” Nhưng, tôi chỉ nghe tiếng dội của chính mình từ ngoài khơi vọng lại một cách tàn nhẫn. Tôi chỉ còn đủ hơi sức chạy được vài mươi thước rồi ngả quỵ trên bãi cát, ôm mặt khóc nức nở. Bạn Yên từ đâu chạy đến, quỳ xuống bên cạnh tôi. Anh ta thấy tôi ôm mặt khóc, cũng khóc theo, rồi mếu máo nói:
- “Tao cũng mồ côi cha mẹ như mầy, Tuấn ơi!”
Tôi gạt nước mắt, hỏi nó:
- “Ba má anh cũng chết ngoài biển như bá má của tôi?”
- “Không, tía má tao bị người ta giết!”
- “Ai giết?”
- “Bác Tám giết, rồi ông ấy mang tao ra hòn đảo hoang nầy dạy dỗ tao nên người!”
- “Tại sao bác Tám lại giết ba má của anh chớ?”
- “Tao thường nghe bác Tám thường hay lẩm bẩm một mình: “Tôi giết tía má thằng Yên!” Nhưng, tao mang ơn bác Tám suốt kiếp! Không có ổng, làm gì tao sống đến ngày hôm nay.” Yên nói.
- “Tôi không hiểu anh nói gì hết! Nhưng thôi, chuyện của anh!” tôi hỏi. “Đảo nầy tên gì, ở đâu?”
- “Đảo nầy nhiều san hô lắm nên tao gọi là đảo “San Hô”, còn bác tao gọi là đảo “Sám Hối”, vì đảo nầy không có tên trong vùng biển nầy.”
- “Đảo nầy là hoang đảo, phải không anh?” tôi hỏi.
- “Không hẳn vậy đâu! Khi bác đưa tao đến đảo nầy, đã có mươi gia đình chài lưới ở phía sau đảo. Nhưng cách đây vài năm, một đợt sóng thần khổng lồ bốc lên khỏi bờ biển, bất ngờ ập đến làng chài vào lúc nửa đêm, cuốn cả làng ra biển. Từ đó, không có ai léo hánh đến đảo nầy nửa.” Yên đứng dậy, nói. “Thôi, mình về nhà. Tao nướng tôm hùm cho mầy ăn.”
Anh Yên nắm tay tôi trở về bãi biển trước nhà. Chúng tôi ngồi dưới hàng dừa cong vút, những tàu lá nhuộm vàng ánh trăng nhợt nhạt, xào xạt đón gió đêm sương. Bạn Yên chạy vào trong nhà lấy một cái mền quàng lên người tôi, rồi bắt đầu nhốm lửa. Những thanh củi từ từ đượm lên ngọn lửa sáng rực, nhưng ít bốc khói, hơi nóng tỏa ra thật ấm áp. Tôi chà xát hai bàn tay trên ngọn lửa rồi áp vào mặt mình, cảm thấy thật dễ chịu. Còn Yên đứng dậy, đi ra bãi biển, kéo cái lọp bằng tre đan từ dưới mặt biển lên, rồi đi trở lại, ngồi đối diện với tôi. Anh ta thò tay vô trong lọp bắt ra hai con tôm hùm xanh, vỏ lốm đốm trắng, sức nặng mỗi con trên một kí lô chớ không ít. Yên lấy cây neo là một que thép nhỏ, nhọn đầu, dài khoảng 5 tấc dùng để neo cái lọp xuống bãi cát, vừa để lụi tôm hùm. Tôi cầm một đầu, Yên giữ một đầu xoay đi, xoay lại cho đến khi vỏ hai con tôm hùm trở thành màu đỏ hồng. Thỉnh thoảng, nước từ mình con tôm hùm rỉ ra từng giọt, rơi xuống than hồng, phát ra những kêu xèo xèo. Tôm hùm nướng trên bãi biển vừa thổi vừa lột vỏ, nóng gần phỏng tay. Tôi đưa con tôm lên miệng xé một miếng nhỏ, nhai ngấu nghiến, thịt tôm ngon ngọt làm sao.
Tôi hỏi:
- “Bác Tám biến đi đâu từ chiều hôm qua, cho đến bây giờ chưa thấy ổng trở về nhà vậy, anh Yên?”
- “Ổng đi tìm vớt xác người vượt biển!” Yên nói. “Sau những ngày biển động, bác Tám không đi biển săn cá mập, chỉ đi quanh quẩn chung quanh đảo suốt ngày để cứu thuyền nhân bị đắm tàu hoặc vớt xác họ về chôn cất.”
- “Mong cho ông gặp được ba má của tôi!” trong đầu tôi lóe sáng niềm hy vọng dù mong manh, tôi hỏi. “Đảo nầy có lớn lắm không?”
- “Chỉ đi bộ một ngày là giáp một vòng đảo,” anh ta nói. “Bao giờ mầy khỏe hẳn, tao sẽ dẫn mầy đi một vòng đảo cho biết! Thôi, tụi mình vào nhà ngủ đi, Tuấn!”
Tôi bước vào nhà, khép cánh cửa lại tránh gió lùa vào, rồi ngả mình lên cái chõng tre, mệt mỏi ngủ thiếp đi vào lúc nào cũng không hay...cho đến khi một bàn tay ấm áp đặt lên trán tôi làm tôi giật mình mở bừng mắt ra thì trời đã sáng bửng. Bác Tám ngồi bên cạnh cái chõng, ôn tồn hỏi:
- “Trên chuyến tàu vượt biển của cháu, ngoài mẹ cháu ra, còn có người đàn bà nào khác nữa không?”
Tôi trả lời:
- “Dạ, chỉ có một mình mẹ con thôi!”
- “Thôi, như vậy là đúng rồi,” bác thở dài, tiếp. “Mẹ con đã chết rồi!”
Tôi ngỡ ngàng, hỏi:
- “Tại sao bác biết chắc như vậy?”
Ông ta nói:
- “Dậy đi! Ra ngoài sân, bác chỉ cho cháu xem vật nầy.”
Thấy tôi theo bác ra ngoài sân, Yên cũng ngồi dậy cùng đi ra ngoài. Trên sân, một cột buồm đã gẫy với tấm vải buồm bị cắt xén một góc và một cái phao cấp cứu bằng ruột xe vespa. Bác lấy một xâu chuỗi “mai côi” trong túi áo ra, đưa cho tôi, nói:
- “Bác đã tìm thấy vật nầy đeo trên cổ xác chết của một phụ nữ khoảng ngoài 40 tuổi, trôi tấp vào bãi biển phía Nam đảo cùng với cột buồm đã gẫy,” bác thở dài, nói. “Vì thân thể ngâm dưới lâu ngày đã biến thành dị dạng, nên ông đã cắt vải buồm để liệm bà và chôn trong nghĩa trang dưới chân đồi gần đây thôi!”
Xin coi tiếp phần 2