Không ít người thấy bất ngờ khi Liên đoàn thống kê và lịch sử bóng đá quốc tế IFFHS bình chọn chiến lược gia người Thụy Điển Sven Goran Eriksson đứng thứ 8 trong danh sách những HLV xuất sắc nhất mọi thời đại. Nhưng công bằng mà nói, ngoài những rắc rối đời tư mang tính chất scandal, Eriksson cũng là một vị tướng có tài cầm quân.
Trước khi trở thành một HLV, như rất nhiều những người đồng nghiệp khác, Eriksson cũng từng là một cầu thủ. Tuy nhiên, ông chỉ là một cầu thủ trung bình của những hạng đấu thấp tại Thụy Điển và đã buộc phải giải nghệ vào năm 28 tuổi sau một chấn thương đầu gối nghiêm trọng. Sau khi giã từ sự nghiệp quần đùi áo số, Eriksson đã quyết định sẽ gắn bó với nghiệp huấn luyện và bắt đầu thử sức mình trong vai trò trợ lý.
Năm 1982 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho Eriksson khi ông dẫn dắt đội bóng quê nhà Goteborg giành “cú ăn ba”, trong đó đáng chú ý nhất là danh hiệu UEFA Cup. Chính nhờ thành công vang dội ở đấu trường Châu Âu, Eriksson đã bắt đầu được những CLB hàng đầu lục địa già để mắt. Nhận được lời mời của Benfica, Eriksson khăn gói sang Bồ Đào Nha và lại tiếp tục chinh phục đỉnh cao khi giúp đội bóng này giành cú đúp quốc nội (VĐQG và Cúp QG), đồng thời về thứ hai tại đấu trường UEFA Cup.
Ông là một nhà cầm quân tài năng
Có thể nói, sau những thành tích ấn tượng ban đầu, Eriksson đã tạo dấu ấn lớn trong làng HLV và cuộc phiêu lưu của ông tiếp tục khi điểm đến lần này là Italia, nơi Roma trải thảm đỏ mời chiến lược gia người Thụy Điển về cầm quân. Tuy nhiên, 3 năm dẫn dắt Roma đã không thành công như mong đợi của Eriksson khi ông không thể giúp đội đoạt vinh quang nào đáng kể ngoài Coppa Italia 1986. Chia tay Roma, Eriksson lại tới Fiorentina và ở lại đây 2 năm nhưng không có được vinh quang nào. Sau đó, ông quay trở về Benfica và lại lập tức có được dấu ấn lớn khi giúp đội bóng Bồ Đào Nha vào chung kết Champions League năm 1990 (thua Milan 0-1), và đoạt thêm 1 chức vô địch quốc gia.
Vẫn như những lần trước, Eriksson tiếp tục thích “lang bạt” khi chuyển tới dẫn dắt Sampdoria. Tuy nhiên, 5 năm ở đội bóng này, ông chỉ giúp họ giành Coppa Italia 1994. Nước Ý có vẻ chưa mang lại vận may cho Eriksson cho tới khi ông tiếp quản chiếc ghế huấn luyện ở Lazio. Tại đội bóng thủ đô, chiến lược gia tài năng đã làm hồi sinh CLB này với hầu hết những danh hiệu cao quý nhất. Dưới sự chỉ đạo của Eriksson, Lazio đã giành Scudetto, vô địch Coppa Italia, đoạt siêu cúp Italia, thắng MU trong trận tranh siêu cúp Châu Âu.
Sau khi gặt hái vinh quang ở cấp CLB, Eriksson đã quyết định thử tài trên bình diện ĐTQG khi ngồi vào “chiếc ghế nóng” ở đội tuyển Anh. Mặc dù đã thể hiện phần nào tài năng của mình nhưng trải qua những giải đấu lớn, thành tích của Eriksson với Tam sư chỉ dừng ở tứ kết World Cup 2002, tứ kết Euro 2004 và tứ kết World Cup 2006. Vụ scandal tình dục với nữ thư ký Faria Alam bị phanh phui sau World Cup 2006 đã khiến Eriksson buộc phải rời bỏ cương vị huấn luyện ở Tam sư. Ông nhanh chóng được Manchester City mời về dẫn dắt đội, nhưng chỉ sau đúng 1 mùa giải không thành công, Eriksson lại ra đi để tiếp tục những chuyến phiêu lưu của mình.
Cuộc phiêu lưu trên ghế huấn luyện của Eriksson vẫn chưa dừng lại
Điểm đến tiếp theo của ông là Mexico nhưng sau khi đội tuyển nước này thi đấu bết bát tại vòng loại World Cup 2010, Eriksson đã bị sa thải và chuyển tới huấn luyện cho Bờ Biển Ngà ở VCK World Cup tại Nam Phi vừa qua. Dù vậy, thời gian gắn bó và chuẩn bị quá ngắn khiến Eriksson không thể giúp Bờ Biển Ngà có một giải đấu thành công khi “những chú voi” chịu dừng bước sau vòng bảng.
Như vậy, tính từ năm 1977, thời điểm bắt đầu vào nghề, Eriksson đã dẫn dắt tất cả 12 đội bóng (2 lần với Benfica) và trở thành một trong những chiến lược gia “đi đây đi đó” nhiều nhất thế giới.
* Allsvenskan Champions 1982
* UEFA Cup Winners 1982
* Cup of Portugal Winners 1983
* SuperCup Cândido de Oliveira Champions 1989
* European Cup Runners Up 1990
* UEFA Cup Runners Up 1983
* Italian Super Cup Winners 1998, 2000
* UEFA Cup Winners’ Cup Winners 1999
* UEFA Super Cup Winners 1999
* Serie A Champions 2000
* UEFA Cup Runners Up 1998
TA
(theo 24h)
Trước khi trở thành một HLV, như rất nhiều những người đồng nghiệp khác, Eriksson cũng từng là một cầu thủ. Tuy nhiên, ông chỉ là một cầu thủ trung bình của những hạng đấu thấp tại Thụy Điển và đã buộc phải giải nghệ vào năm 28 tuổi sau một chấn thương đầu gối nghiêm trọng. Sau khi giã từ sự nghiệp quần đùi áo số, Eriksson đã quyết định sẽ gắn bó với nghiệp huấn luyện và bắt đầu thử sức mình trong vai trò trợ lý.
Năm 1982 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho Eriksson khi ông dẫn dắt đội bóng quê nhà Goteborg giành “cú ăn ba”, trong đó đáng chú ý nhất là danh hiệu UEFA Cup. Chính nhờ thành công vang dội ở đấu trường Châu Âu, Eriksson đã bắt đầu được những CLB hàng đầu lục địa già để mắt. Nhận được lời mời của Benfica, Eriksson khăn gói sang Bồ Đào Nha và lại tiếp tục chinh phục đỉnh cao khi giúp đội bóng này giành cú đúp quốc nội (VĐQG và Cúp QG), đồng thời về thứ hai tại đấu trường UEFA Cup.

Ông là một nhà cầm quân tài năng
Có thể nói, sau những thành tích ấn tượng ban đầu, Eriksson đã tạo dấu ấn lớn trong làng HLV và cuộc phiêu lưu của ông tiếp tục khi điểm đến lần này là Italia, nơi Roma trải thảm đỏ mời chiến lược gia người Thụy Điển về cầm quân. Tuy nhiên, 3 năm dẫn dắt Roma đã không thành công như mong đợi của Eriksson khi ông không thể giúp đội đoạt vinh quang nào đáng kể ngoài Coppa Italia 1986. Chia tay Roma, Eriksson lại tới Fiorentina và ở lại đây 2 năm nhưng không có được vinh quang nào. Sau đó, ông quay trở về Benfica và lại lập tức có được dấu ấn lớn khi giúp đội bóng Bồ Đào Nha vào chung kết Champions League năm 1990 (thua Milan 0-1), và đoạt thêm 1 chức vô địch quốc gia.
Vẫn như những lần trước, Eriksson tiếp tục thích “lang bạt” khi chuyển tới dẫn dắt Sampdoria. Tuy nhiên, 5 năm ở đội bóng này, ông chỉ giúp họ giành Coppa Italia 1994. Nước Ý có vẻ chưa mang lại vận may cho Eriksson cho tới khi ông tiếp quản chiếc ghế huấn luyện ở Lazio. Tại đội bóng thủ đô, chiến lược gia tài năng đã làm hồi sinh CLB này với hầu hết những danh hiệu cao quý nhất. Dưới sự chỉ đạo của Eriksson, Lazio đã giành Scudetto, vô địch Coppa Italia, đoạt siêu cúp Italia, thắng MU trong trận tranh siêu cúp Châu Âu.
Sau khi gặt hái vinh quang ở cấp CLB, Eriksson đã quyết định thử tài trên bình diện ĐTQG khi ngồi vào “chiếc ghế nóng” ở đội tuyển Anh. Mặc dù đã thể hiện phần nào tài năng của mình nhưng trải qua những giải đấu lớn, thành tích của Eriksson với Tam sư chỉ dừng ở tứ kết World Cup 2002, tứ kết Euro 2004 và tứ kết World Cup 2006. Vụ scandal tình dục với nữ thư ký Faria Alam bị phanh phui sau World Cup 2006 đã khiến Eriksson buộc phải rời bỏ cương vị huấn luyện ở Tam sư. Ông nhanh chóng được Manchester City mời về dẫn dắt đội, nhưng chỉ sau đúng 1 mùa giải không thành công, Eriksson lại ra đi để tiếp tục những chuyến phiêu lưu của mình.

Cuộc phiêu lưu trên ghế huấn luyện của Eriksson vẫn chưa dừng lại
Điểm đến tiếp theo của ông là Mexico nhưng sau khi đội tuyển nước này thi đấu bết bát tại vòng loại World Cup 2010, Eriksson đã bị sa thải và chuyển tới huấn luyện cho Bờ Biển Ngà ở VCK World Cup tại Nam Phi vừa qua. Dù vậy, thời gian gắn bó và chuẩn bị quá ngắn khiến Eriksson không thể giúp Bờ Biển Ngà có một giải đấu thành công khi “những chú voi” chịu dừng bước sau vòng bảng.
Như vậy, tính từ năm 1977, thời điểm bắt đầu vào nghề, Eriksson đã dẫn dắt tất cả 12 đội bóng (2 lần với Benfica) và trở thành một trong những chiến lược gia “đi đây đi đó” nhiều nhất thế giới.
Những danh hiệu mà Eriksson đã đoạt được:
- Göteborg
* Svenska Cupen Winners 1979, 1982* Allsvenskan Champions 1982
* UEFA Cup Winners 1982
- Benfica
* Portuguese Liga Champions 1983, 1984, 1991* Cup of Portugal Winners 1983
* SuperCup Cândido de Oliveira Champions 1989
* European Cup Runners Up 1990
* UEFA Cup Runners Up 1983
- Roma
* Coppa Italia Winners 1986
- Sampdoria
* Coppa Italia Winners 1994
- Lazio
* Coppa Italia Winners 1998, 2000* Italian Super Cup Winners 1998, 2000
* UEFA Cup Winners’ Cup Winners 1999
* UEFA Super Cup Winners 1999
* Serie A Champions 2000
* UEFA Cup Runners Up 1998
- Tuyển Anh
* FA Summer Tournament Winners 2004
TA
(theo 24h)