Hình bên: Khất sĩ ôm bình bát một buổi chiều cuối năm 2007. Rất ít ai biết gì về khất sĩ này, đến nỗi một bà lão còn vừa nói vừa cười, “Cũng có thể làm chủ khu thương xá này không chừng.”
Bài và hình: Hoàng Mai Ðạt/Người Việt
WESTMINSTER (NV) - Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
Trường hợp của “ông sư đứng xin tiền” có những yếu tố bất thường khiến nhiều người thắc mắc. Ông đứng yên một chỗ, không đi tới đi lui như các khất sĩ khác. Theo truyền thống từ thời Ðức Phật, một nhà sư không đi khất thực quá giờ ngọ - 12 giờ trưa, không từ chối bất cứ món cúng dường nào. “Ông sư đứng xin tiền” khất thực từ sáng cho đến chiều tối, chỉ nhận tiền mà thôi, xuất hiện trong nhiều năm.
Trong một buổi họp cuối năm của ban biên tập, tôi nhận công tác tìm hiểu một khất sĩ thường đứng bên ngoài thương xá Phước Lộc Thọ giữa khu phố Little Saigon. Lúc đó tôi không hề biết chỉ vì sự giơ tay tình nguyện một cách bốc đồng, trong một thời gian ngắn tôi trở thành một thám tử hạng tép riêu, có dịp xem hình riêng tư của người lạ, và cần viếng chùa để học hỏi thêm về đạo Phật.
Tôi thực hiện công tác viết phóng sự về “ông sư đứng xin tiền” ngay buổi chiều hôm ấy. Cũng từ phút đó, từ lúc tôi đeo túi xách trên vai mang theo máy chụp hình và bút giấy, đi bộ từ tòa soạn báo Người Việt đến khu Phước Lộc Thọ ở bên kia đường Bolsa, cuộc đời của tôi và của khất sĩ ấy bỗng gắn liền như có cơ duyên từ kiếp trước, như thể sự tình nguyện của tôi bắt nguồn từ trong tiềm thức.
Một đồng nghiệp của tôi cho biết ông từng gợi chuyện với khất sĩ mà chỉ nghe ông trả lời một, hai câu rất ngắn. Khất sĩ không cho biết tên, tu ở chùa nào, hoặc sống ở đâu. Lại có đồng nghiệp khác phỏng đoán nhà sư này giàu lắm, không chừng ông ấy đi xe Mercedes, sống ở Newport Beach, v.v..., những lời đoán không biết dựa trên cơ sở nào.
Với những thắc mắc đè nặng trên vai, tôi bước vào bãi đậu xe phía trước khu thương xá cao hai tầng, thấy ngay khất sĩ trong tầm mắt, giữa mặt tiền của thương xá, cách ba bức tượng Phước, Lộc, Thọ và tượng Phật Di Lặc chừng mười lăm thước. Nhà sư nhắm mắt, hai tay ôm bình bát, đứng chân trần trên nấc đầu tiên của một cái thang rất thấp màu trắng, có thể xếp lại để cầm trong tay, cao gần nửa thước, được đặt bên trên khoảng đất nằm giữa những ô đậu xe.
Trong hơn bốn tiếng đồng hồ, tôi lượn quanh nhà sư, có lúc gần có lúc xa, để chụp hình và nghe ngóng. Mỗi khi thấy ông hé mắt, tôi có cảm tưởng ông cũng đang theo dõi tôi. Ông đứng ở một vị trí rất tốt để nhận cúng dường. Hầu như ai đi ngang cũng dừng lại vài giây để quan sát. Có người bước đến thật gần để xem khất sĩ là thật hay giả vì ông đứng yên như một pho tượng.
Một bà khoảng trên 60 tuổi muốn đặt một túi xôi vào bình bát mà không được. Một ông ngồi gần đó, có lẽ thường có mặt ở đây, liền chạy đến giúp. Ông nói bà nên cho tiền thay vì cho xôi. Thấy bà bỏ được tiền vào bình bát, tôi đi theo bà vào trong thương xá để hỏi vài câu. Tôi được biết bà đến từ Boston. Bà không hiểu tại sao khất sĩ không mở nắp để nhận xôi như các nhà sư vẫn làm ở Việt Nam. Bà nghĩ khất sĩ là người ngoại quốc vì ông có làn da khá trắng, mũi cao và thanh.
Một người thường có mặt ở Phước Lộc Thọ là anh Kiểm, khoảng trên 30 tuổi, từng sống tại Long Khánh. Ngồi ở bàn sát khung kính ở bên trong thương xá và nhìn khất sĩ đứng ở bên ngoài, Kiểm nói, “Bỏ tiền cắc hoặc bỏ ít, ổng không lấy đâu.” Kiểm không biết khất sĩ từ đâu đến, chỉ biết ngày nào ông cũng có mặt tại Phước Lộc Thọ.
Buổi chiều Thứ Sáu cuối cùng của năm 2007 đã có nhiều người đến thương xá. Trung bình mười lăm phút có người bỏ tiền vào bình bát. Tôi không thể đoán mỗi người cho bao nhiêu tiền, vài đồng hay vài chục.
Nhà văn Huy Phương cũng đứng lại vài phút để quan sát khất sĩ trước khi bước vào bên trong với một xấp báo ở trong tay. Nhà văn chuyên viết tạp ghi này nói, “Tui cũng không biết ổng ở đâu. Chắc tu tại gia. Ngày trước thấy ở chợ ABC, một thời gian thấy ở phía sau Phước Lộc Thọ, nay đứng ở đây. Không biết ông tu theo trường phái nào.”
Nghe tôi thắc mắc về khất sĩ, một bà lão gần 70 tuổi vừa nói vừa cười, “Ông sư này có nhiều tiền, chắc xây chùa rồi. Cũng có thể làm chủ khu thương xá này không chừng.”
Chủ nhân của Asian Garden Mall - tên tiếng Anh của khu Phước Lộc Thọ - là công ty Bridgecreek. Tổng giám đốc của công ty là ông Frank Jao, tức ông Triệu Phát. Buổi chiều hôm ấy tôi thấy ông Triệu Phát thọc tay trong túi quần, đi vòng quanh thương xá vài lần với một thanh niên ăn mặc tươm tất. Có lúc ông đứng xem các nhân viên giăng dây bong bóng đỏ bên trên bãi đậu xe để đón Tết Dương Lịch. Không thấy ông nhìn về hướng khất sĩ.
Cũng có người chê bai nhà tu khất thực. Một ông đứng tuổi, đội nón lưỡi trai đã nói lớn sau lưng khất sĩ, “Ðồ lười, không chịu làm việc. Mặc đồ rách rưới, hôi hám.” Tôi nhận ra ông đứng tuổi này vì ông thường đạp xe đi làm gần nhà tôi.
Trong thời gian quan sát khất sĩ, tôi phải bước vào bên trong thương xá vài lần để giữ ấm. Khí lạnh của một chiều mùa đông không cho tôi đứng được lâu hơn ba mươi phút mà môi và mặt không bị tái mét. Vì tầng dưới rất ồn ào huyên náo với tiếng người ăn uống và người ra vào, tôi tìm một khung kính trên tầng thứ nhì. Có lúc tôi gọi điện thoại cho vợ để báo cáo tôi đang làm phóng sự, cần theo dõi một khất sĩ để biết ông là ai, có lái xe Mercedes hay không.
Trong khi vợ lo lắng, tôi ngắm bóng chiều đổ trên lưng áo vàng của khất sĩ đang đứng yên trong một ngày lạnh lẽo. Một lần đến thật gần, tôi thấy bàn chân bên trái của ông bị sưng vù với hai khối ghẻ đang mưng mủ. Cơ thể ông đẫm ướt mồ hôi chảy từ trên đầu bóng láng xuống tận bàn chân.
Suốt chiều hôm ấy tôi không thấy ông ăn uống, đi vệ sinh, hoặc nói một lời, chỉ đứng yên như một pho tượng. Thế nhưng cũng có lúc tôi thấy ông cử động. Lúc đó bãi xe chỉ có tôi đứng cách khất sĩ chừng mười thước. Tôi thấy bàn tay trái di chuyển rất chậm trong lúc nắp bình bát được hé mở với bàn tay phải. Tay trái nắm một mớ tiền giấy, từ từ đưa tiền ra ngoài. Tiền biến mất trước khi tôi có thể nhìn thật gần để biết tiền được đưa vào bên trong lớp vải trên tay áo hay bên dưới bình bát.
Ðến gần 6 giờ chiều, trong bóng đêm của mùa đông, khất sĩ từ từ nghiêng mình qua bên phải và bước xuống đất. Với những động tác rất khoan thai, ông xếp chiếc thang nhựa và cầm nó ở bên trong lớp vải cà sa. Thấy ông di chuyển, tôi liền chạy từ tầng thứ nhì xuống các bậc thang, nhìn theo bóng khất sĩ đang đi về hướng bên trái của bãi đậu xe.
Dọc theo hướng Nam trên Weststate Street, tôi thấy khất sĩ thường bước ra giữa đường, khiến xe phải lách qua một bên. Ðến Bishop Place, ông rẽ phải, hướng về một trạm xe bus trên đường Magnolia. Có lúc ông dừng chân, nhìn nghiêng phía bên trái như biết có người đang đi theo.
Trong thời gian chờ xe, khất sĩ đứng trên bãi cỏ nấp đằng sau trạm. Cũng từ lúc đó, tôi chợt nhớ loáng thoáng về một nhà sư mà tôi từng thấy tại trạm xe này nhiều năm trước. Trên chuyến xe số 33 chạy về hướng Bắc rời thành phố Westminster, tôi biết khất sĩ không sống ở Newport Beach. Ông cũng không lái xe Mercedes với bàn chân sưng vù, dày và khô nứt. Ðến một quãng xa Little Saigon, khất sĩ giật dây muốn ngừng xe. Ở góc đường đó chỉ có khất sĩ và tôi bước xuống. Ngoài xe cộ thỉnh thoảng qua lại, góc phố hoàn toàn vắng bóng người.
Tôi đi ngược hướng của ông. Ðợi ông đi xa khoảng 100 thước, tôi mới quay gót và đi theo. Trên con đường vắng, tôi vừa sợ vừa buồn cười trong bụng về tài thám tử của mình mỗi lần nấp đằng sau một cột điện khi thấy khất sĩ quay đầu lại. Một lúc kia ông bất ngờ chạy băng qua một đại lộ, mất hút trong màn đêm tại một ngã ba. Ðến lúc đó tôi vừa chạy vừa thầm nghĩ chắc nhà sư tưởng tôi là một tên cướp, muốn giật bình bát của ông.
Tại một ngã ba khác, ông thoăn thoắt quẹo phải. Rẽ vào con đường đó, một lần nữa tôi mất dấu khất sĩ. Ðúng lúc không còn hy vọng biết ông ở đâu, tôi bỗng thấy tượng Phật Bà bên ngoài một căn nhà có nhiều bụi cây, không được chăm sóc so với những nhà ở chung quanh. Bước đến nhà đó, chưa kịp quan sát, tôi thấy một bóng người trong phòng khách. Người này đưa tay kéo màn như muốn xem ai đang đứng ở bên ngoài. Mặc dù nhanh chân rời xa, tôi biết người nào đó trong phòng khách đã thấy bóng tôi trên lề đường. Ðợi thêm vài phút, tôi trở lại căn nhà. Nhìn vào phòng khách được vén màn, tôi thấy một tượng Phật vàng rất lớn, cao hơn một thước, tương tự như tượng Phật thường thấy ở nhiều ngôi chùa. Vậy là khất sĩ này lập chùa tại gia.
Tôi chắp tay xá một xá hướng về tượng Phật, xong quay gót tìm lối trở lại đại lộ. Trong bóng đêm, tôi lục tìm trong trí nhớ về một nhà sư và trạm xe bus mà tôi từng biết. Tuy không chụp hình chuyên nghiệp, tôi vẫn bấm máy mỗi khi thấy cảnh độc đáo. Một trong mấy bức hình mà tôi từng bấm là hình ảnh một khất sĩ đứng ở trạm xe. Hình ảnh đó mỗi lúc một rõ hơn trong lúc tôi đúng chờ vợ đến đón về. Sáng hôm sau tôi lục tìm trong những thùng đồ cất trong kho. Sau gần nửa tiếng đồng hồ bới tung, tôi tìm ra bức hình của một khất sĩ từng được đăng báo ở San Jose.
Khất sĩ mặc áo cam, đứng bên cạnh một tấm bảng quảng cáo hình một bàn chân che gần hết bảng. Hình chụp đầu Mùa Xuân 1999. Nhìn kỹ nét mặt, tôi nhận ra khất sĩ đó đúng là người mà tôi vừa theo chân đến tận nhà, chỉ khác là trẻ hơn, sạch hơn. Chú thích mà tôi từng ghi dưới tấm ảnh cho thấy khất sĩ năm xưa được 28 tuổi, tu ở Vô Ưu Phổ Ðịnh Phật Tự.
Và pháp hiệu của khất sĩ là Thích Trí Ðịnh.
Hình bên: “Ðứng tu như khất sĩ bên ngoài Phước Lộc Thọ có thể tạo ấn tượng sai lầm hoặc đưa đến những nhận xét báng bổ Phật giáo từ phía những người khác đạo,” một phụ nữ nói lên nỗi ưu tư về nhà sư khất thực.
“Phương pháp tu của ta là tu ẩn, không giống những người khác”
Bài và hình: Hoàng Mai Ðạt/Người Việt
WESTMINSTER, CA (NV) - Tìm được bức hình và pháp hiệu của khất sĩ, tôi ngẫm nghĩ bước kế tiếp trong công tác điều tra “ông sư đứng xin tiền” trước thương xá Phước Lộc Thọ. Một buổi chiều Thứ Sáu tôi đã chụp hình nhà sư ở thương xá. Ðến buổi tối tôi lên xe bus, bám sát theo ông về đến nhà. Nay tôi cần nói chuyện với nhà sư cho dù biết ông có thể không nói gì hết, hoặc nói rất ít như trong lần gặp gỡ ở một trạm xe gần chín năm trước. Lúc đó nhà sư từng nói tên ông là Thích Trí Ðịnh.
Ðợi đến sau giờ làm việc, tôi đi bộ đến khu Phước Lộc Thọ. Vào chiều Thứ Bảy cuối cùng của năm Dương Lịch, người địa phương và du khách từ nơi xa đã lũ lượt kéo về Little Saigon. Tỳ kheo Thích Trí Ðịnh vẫn đứng đó trên bậc thang trắng giữa bãi đậu xe phía trước thương xá.
Ông nhắm mắt, đứng yên như pho tượng màu vàng, tay ôm bình bát chờ khách cúng dường. Tỳ kheo là danh từ dành cho nhà sư khất thực. Tuy trời lạnh, tỳ kheo không hề rùng mình một lần nào. Mồ hôi vẫn chảy nhễ nhại từ trên đầu thấm xuống cổ áo. Lưng của ông vẫn dán những miếng vải bay lửng lơ theo gió chiều.
Ðến lúc trời tối hẳn, y như lần trước mà tôi từng thấy, khất sĩ từ từ nghiêng mình qua bên phải, chậm rãi xếp thang và luồn nó vào bên trong lớp áo cà sa. Ông cầm thang bằng tay phải, tay trái ôm bình bát.
Biết hướng đi của nhà sư, tôi đứng chờ gần góc đường Bolsa và Weststate. Nhằm bày tỏ thiện ý, tôi chắp tay chào “A di đà Phật” trước mặt tỳ kheo. “Chào thầy Thích Trí Ðịnh.” Tôi gọi ông là “thầy” cho dù chưa biết ông tu thật hay tu giả. Tôi cũng tin rằng bày tỏ sự tôn trọng sẽ dẹp bỏ bức tường cản giữa ông và tôi.
Khất sĩ dừng chân vài giây như suy nghĩ - sau này tôi khám phá ông thường im lặng một hồi lâu, có khi vài phút, trước khi trả lời - xong cúi đầu tiếp tục đi trên đường Weststate. Thấy tôi đi theo, ông bỗng quay hỏi, “Làm sao biết tên ta vậy?”
“Tôi từng gặp thầy mấy năm trước, từng chụp hình thầy tại một trạm xe,” tôi giải thích.
Nhà sư bỗng cắt ngang, “Hình như hôm qua... có theo ta mà phải không?”
“Ðúng. Xin lỗi thầy về chuyện đó,” tôi nói, hy vọng lấy được lòng tin của ông.
“Ta biết chứ. Cái tâm chân thật của ta biết chứ,” tỳ kheo Trí Ðịnh nói nhỏ với giọng của người miền Trung, lơ lớ như người Khánh Hòa, quê của tôi.
“Tôi là một người viết, muốn biết sự khó khăn của một nhà tu. Không phải ai cũng có thể khất thực được như thầy. Xin thầy cho biết thầy tu theo môn phái nào?”, tôi vừa hỏi vừa đi bên cạnh nhà sư, ngửi được mùi mồ hôi toát rất mạnh trong khí lạnh từ một cơ thể rắn chắc, khỏe mạnh. Tôi và nhà sư cao bằng nhau, cỡ trung bình của một người đàn ông Việt Nam.
Sau một hồi dừng chân và im lặng, tỳ kheo nói êm đềm, giọng hơi nghèn nghẹt như bị cảm lạnh, “Ðối với ta chỉ có mặt trời, mặt trăng, gió, đá, cây. Trong cái vô tịnh đó luôn luôn có trâu đất và trâu trắng, cứu cánh của đạo.”
Theo thiền tông, trâu đất hay trâu đen nói đến cái tâm chưa sạch. Trâu trắng là tâm không còn chướng ngại, không có tham và sân. Ðen và trắng cũng ám chỉ ác và thiện. Trong những câu trả lời, khất sĩ thường nói rất mơ hồ pha trộn những ý tưởng của đạo.
“Ta nói rất là khó hiểu, cho nên ta nói lái, nói tréo mà không nói thẳng,” tỳ kheo giải thích.
Lúc đó một chiếc pickup cũ bỗng dừng lại, đậu phía trước chúng tôi, chờ đưa khất sĩ về nhà. Có lẽ vì bị tôi theo dõi đêm hôm trước, khất sĩ tránh dùng xe bus như mọi lần.
Khi nghe tôi hỏi về vấn đề không ăn uống hoặc dùng phòng vệ sinh trong suốt thời gian khất thực, nhà sư trả lời, “Sự việc rất đơn giản. Tất cả đều do kinh nghiệm của thói quen được kiểm soát.”
Một thượng tọa ở Gardena từng đến hỏi khất sĩ rằng làm sao khất sĩ có thể đứng suốt ngày mà không tiểu tiện, và khất sĩ trả lời ông mặc tã dành cho người lớn. Nhìn mấy lớp vải mặc chung quanh khất sĩ trong bóng tối, tôi không thể đoán ông có mặc tã hay không.
Nhìn hai khối ghẻ sưng vù trên bàn chân trái của khất sĩ, tôi hỏi ông có đau không. Ông trả lời, “Nếu ta nhìn lại quá khứ của người trước thì ta mới cảm giác được sự hy sinh của những vị để lại nhục thân trải qua một con đường tu luyện. Ta cảm được cái sức mạnh, cái ánh sáng, và sự hy sinh.”
Biết người ngồi trong chiếc pickup đang chờ, với lại nghe khất sĩ nói “A di đà Phật” lần thứ nhì như muốn từ giã, tôi để cho khất sĩ lên xe và ngỏ lời chào ông tài xế đứng tuổi - mấy ngày sau tôi được biết ông tên Hùng. Trên đường đi bộ về nhà đêm hôm đó, tôi thắc mắc về phương pháp tu của khất sĩ, không biết hướng đi của ông đúng hay sai.
Tại quận Cam, một trong các nhóm Phật Giáo thường tổ chức những buổi thuyết pháp là Hội Phật Học Ðuốc Tuệ. Khi nghe về khất sĩ tại Phước Lộc Thọ, cư sĩ Mật Nghiêm của Hội Phật Học Ðuốc Tuệ cho biết ông cũng từng đến gần và tìm hiểu về khất sĩ.
“Qui luật nhất định là không đứng quá buổi trưa,” cư sĩ Mật Nghiêm nói. “Ðứng khất thực suốt ngày thì còn thời giờ nào để tu, để học, để làm Phật sự. Tối về là mệt rồi. Chúng ta phải hiểu đi khất thực là mang nợ, là vay nghiệp. Chúng sinh đưa tiền cho ông là để ông làm Phật sự. Theo luật của Phật, thứ nhất không được khất thực quá trưa, thứ hai không được lấy tiền. Dứt khoát là như vậy.”
Một nữ Phật tử với pháp danh Mỹ Ngọc, sống tại Westminster, cho biết, “Nếu ở một xứ Phật Giáo như Tích Lan hoặc Thái Lan, một nhà sư có đứng tu ở ngoài đường như vậy thì cũng chẳng sao, không là một vấn đề hệ trọng. Thế nhưng tại một xứ sở có nhiều tôn giáo như nước Mỹ, tôi e rằng đứng tu như khất sĩ bên ngoài Phước Lộc Thọ có thể tạo ấn tượng sai lầm hoặc đưa đến những nhận xét báng bổ Phật Giáo từ phía những người khác đạo.”
Khi nghe tôi trình bày về trường hợp của khất sĩ, Hòa Thượng Thích Hạnh Ðạo tại chùa Phổ Ðà, Santa Ana cho biết, “Trong Phật Giáo có một điều được gọi là vô lượng pháp môn tu, tức là có vô số cách để tu. Kiểu của ông ấy có thể là một trong các pháp môn mà mình không biết, nên không thể nói được.”
Cũng tại chùa Phổ Ðà, một Phật tử với pháp danh Tâm Phú cho biết ông từng nghe về nhà sư đứng khất thực bên ngoài Phước Lộc Thọ.
“Theo tôi nghĩ thì ông ấy không nên đứng ở đó,” cư sĩ Tâm Phú nói. “Cái hạnh tu thì ở chỗ nào cũng vậy thôi, nhưng mà không nên đứng đó. Người ta nói ra nói vào, không tốt. Chỗ đó là cái chợ mà.”
“Nhưng mà có thể ông làm như vậy để nhiều người nổi sân lên,” cư sĩ Tâm Phú nói tiếp. “Ở trong kinh Pháp Hoa, phẩm 20, có một vị bồ tát được gọi là Thường Bất Khinh Bồ Tát. Ði đâu Thường Bất Kinh Bồ Tát cũng nói với mọi người là ‘Anh sẽ thành Phật.’ Gặp ai ông cũng nói như vậy. Ông nói hoài làm người ta tức mình, người ta chửi, người ta đánh ông. Nhưng ông cứ nói miết câu đó. Hành động của ông cũng gieo cho người ta một cái duyên tốt. Những người chửi ông sau cũng thành Phật.”
Trong bộ Phật Học Từ Ðiển của Ðoàn Trung Còn (xuất bản năm 1997 tại Việt Nam), một đoạn cho biết Thường Bất Khinh Bồ Tát vẫn đứng yên cho dù bị đánh hoặc bị chửi, và miệng luôn nói với người lạ, “Tôi chẳng dám khinh ngài, vì ngài sẽ thành Phật.” Vị bồ tát này sống trong thời Tượng Pháp, tức là khoảng thời gian từ 100 năm trước Công Nguyên đến thế kỷ thứ 10.
Vào sáng Thứ Hai và cũng là buổi sáng cuối cùng của năm 2007, trước khi đến tòa soạn Người Việt, tôi lái xe ghé nhà của tỳ kheo Trí Ðịnh. Thấy chiếc thang nhỏ màu trắng nằm dưới mái hiên, tôi biết khất sĩ chưa rời nhà. Một người đàn ông cao ốm bước ra ngoài. Ông mặc quần áo cũ, nói một câu tiếng Anh với người đứng ở bên trong. Tuy có mái tóc đen muối tiêu, ông ta không có vẻ là người Việt Nam. Vài giây sau khất sĩ bước ra. Thấy tôi không cầm theo túi xách hoặc máy ảnh, khất sĩ gật đầu chào “A di đà Phật,” xong cầm thang và bước đến gần tôi như người quen.
Lúc đứng bên tôi vài phút, khất sĩ nhìn một thân cây sát trước mặt, nói nhỏ như nói với cây. Tôi chỉ nghe được một đoạn. “Phương pháp tu của ta là tu ẩn, không giống những người khác,” khất sĩ nói. Ðầu của ông được bôi trắng với kem chống nắng.
Nếu là “tu ẩn” thì tại sao lại xuất hiện giữa chợ? Khất sĩ không trả lời câu hỏi của tôi. Ðúng lúc đó Vick - tên của người đàn ông tóc muối tiêu - thúc giục khất sĩ lên xe. Tôi nghe tỳ kheo Trí Ðịnh trả lời bằng tiếng Anh lưu loát với tài xế.
Ông Vick lái một chiếc xe màu đen hai cửa rất cũ, bừa bộn với sách vở, quần áo, tiền cắc vất tứ tung. Tôi mở cửa cho khất sĩ bước vào ghế trước, cẩn thận vén tà áo của ông vào bên trong cánh cửa. Tuy không lái theo chiếc xe cũ đó, tôi đoán khất sĩ sẽ ra đứng ở Phước Lộc Thọ như bữa trước.
Thầy Thích Hạnh Ðạo tại chùa Phổ Ðà cho biết, “Trong Phật Giáo có nói có tám vạn bốn ngàn cái phiền não, cho nên mới có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, mỗi pháp môn tu để diệt trừ mỗi cái phiền não.”
Tôi suy ngẫm về pháp môn “tu ẩn” của tỳ kheo Trí Ðịnh, không hiểu tỳ kheo muốn diệt cái phiền não nào.
<!--@vbbanners:0@-->






Bài và hình: Hoàng Mai Ðạt/Người Việt
WESTMINSTER (NV) - Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
Trường hợp của “ông sư đứng xin tiền” có những yếu tố bất thường khiến nhiều người thắc mắc. Ông đứng yên một chỗ, không đi tới đi lui như các khất sĩ khác. Theo truyền thống từ thời Ðức Phật, một nhà sư không đi khất thực quá giờ ngọ - 12 giờ trưa, không từ chối bất cứ món cúng dường nào. “Ông sư đứng xin tiền” khất thực từ sáng cho đến chiều tối, chỉ nhận tiền mà thôi, xuất hiện trong nhiều năm.
Trong một buổi họp cuối năm của ban biên tập, tôi nhận công tác tìm hiểu một khất sĩ thường đứng bên ngoài thương xá Phước Lộc Thọ giữa khu phố Little Saigon. Lúc đó tôi không hề biết chỉ vì sự giơ tay tình nguyện một cách bốc đồng, trong một thời gian ngắn tôi trở thành một thám tử hạng tép riêu, có dịp xem hình riêng tư của người lạ, và cần viếng chùa để học hỏi thêm về đạo Phật.
Tôi thực hiện công tác viết phóng sự về “ông sư đứng xin tiền” ngay buổi chiều hôm ấy. Cũng từ phút đó, từ lúc tôi đeo túi xách trên vai mang theo máy chụp hình và bút giấy, đi bộ từ tòa soạn báo Người Việt đến khu Phước Lộc Thọ ở bên kia đường Bolsa, cuộc đời của tôi và của khất sĩ ấy bỗng gắn liền như có cơ duyên từ kiếp trước, như thể sự tình nguyện của tôi bắt nguồn từ trong tiềm thức.
Một đồng nghiệp của tôi cho biết ông từng gợi chuyện với khất sĩ mà chỉ nghe ông trả lời một, hai câu rất ngắn. Khất sĩ không cho biết tên, tu ở chùa nào, hoặc sống ở đâu. Lại có đồng nghiệp khác phỏng đoán nhà sư này giàu lắm, không chừng ông ấy đi xe Mercedes, sống ở Newport Beach, v.v..., những lời đoán không biết dựa trên cơ sở nào.
Với những thắc mắc đè nặng trên vai, tôi bước vào bãi đậu xe phía trước khu thương xá cao hai tầng, thấy ngay khất sĩ trong tầm mắt, giữa mặt tiền của thương xá, cách ba bức tượng Phước, Lộc, Thọ và tượng Phật Di Lặc chừng mười lăm thước. Nhà sư nhắm mắt, hai tay ôm bình bát, đứng chân trần trên nấc đầu tiên của một cái thang rất thấp màu trắng, có thể xếp lại để cầm trong tay, cao gần nửa thước, được đặt bên trên khoảng đất nằm giữa những ô đậu xe.
Trong hơn bốn tiếng đồng hồ, tôi lượn quanh nhà sư, có lúc gần có lúc xa, để chụp hình và nghe ngóng. Mỗi khi thấy ông hé mắt, tôi có cảm tưởng ông cũng đang theo dõi tôi. Ông đứng ở một vị trí rất tốt để nhận cúng dường. Hầu như ai đi ngang cũng dừng lại vài giây để quan sát. Có người bước đến thật gần để xem khất sĩ là thật hay giả vì ông đứng yên như một pho tượng.
Một bà khoảng trên 60 tuổi muốn đặt một túi xôi vào bình bát mà không được. Một ông ngồi gần đó, có lẽ thường có mặt ở đây, liền chạy đến giúp. Ông nói bà nên cho tiền thay vì cho xôi. Thấy bà bỏ được tiền vào bình bát, tôi đi theo bà vào trong thương xá để hỏi vài câu. Tôi được biết bà đến từ Boston. Bà không hiểu tại sao khất sĩ không mở nắp để nhận xôi như các nhà sư vẫn làm ở Việt Nam. Bà nghĩ khất sĩ là người ngoại quốc vì ông có làn da khá trắng, mũi cao và thanh.
Một người thường có mặt ở Phước Lộc Thọ là anh Kiểm, khoảng trên 30 tuổi, từng sống tại Long Khánh. Ngồi ở bàn sát khung kính ở bên trong thương xá và nhìn khất sĩ đứng ở bên ngoài, Kiểm nói, “Bỏ tiền cắc hoặc bỏ ít, ổng không lấy đâu.” Kiểm không biết khất sĩ từ đâu đến, chỉ biết ngày nào ông cũng có mặt tại Phước Lộc Thọ.
Buổi chiều Thứ Sáu cuối cùng của năm 2007 đã có nhiều người đến thương xá. Trung bình mười lăm phút có người bỏ tiền vào bình bát. Tôi không thể đoán mỗi người cho bao nhiêu tiền, vài đồng hay vài chục.
Nhà văn Huy Phương cũng đứng lại vài phút để quan sát khất sĩ trước khi bước vào bên trong với một xấp báo ở trong tay. Nhà văn chuyên viết tạp ghi này nói, “Tui cũng không biết ổng ở đâu. Chắc tu tại gia. Ngày trước thấy ở chợ ABC, một thời gian thấy ở phía sau Phước Lộc Thọ, nay đứng ở đây. Không biết ông tu theo trường phái nào.”
Nghe tôi thắc mắc về khất sĩ, một bà lão gần 70 tuổi vừa nói vừa cười, “Ông sư này có nhiều tiền, chắc xây chùa rồi. Cũng có thể làm chủ khu thương xá này không chừng.”
Chủ nhân của Asian Garden Mall - tên tiếng Anh của khu Phước Lộc Thọ - là công ty Bridgecreek. Tổng giám đốc của công ty là ông Frank Jao, tức ông Triệu Phát. Buổi chiều hôm ấy tôi thấy ông Triệu Phát thọc tay trong túi quần, đi vòng quanh thương xá vài lần với một thanh niên ăn mặc tươm tất. Có lúc ông đứng xem các nhân viên giăng dây bong bóng đỏ bên trên bãi đậu xe để đón Tết Dương Lịch. Không thấy ông nhìn về hướng khất sĩ.
Cũng có người chê bai nhà tu khất thực. Một ông đứng tuổi, đội nón lưỡi trai đã nói lớn sau lưng khất sĩ, “Ðồ lười, không chịu làm việc. Mặc đồ rách rưới, hôi hám.” Tôi nhận ra ông đứng tuổi này vì ông thường đạp xe đi làm gần nhà tôi.
Trong thời gian quan sát khất sĩ, tôi phải bước vào bên trong thương xá vài lần để giữ ấm. Khí lạnh của một chiều mùa đông không cho tôi đứng được lâu hơn ba mươi phút mà môi và mặt không bị tái mét. Vì tầng dưới rất ồn ào huyên náo với tiếng người ăn uống và người ra vào, tôi tìm một khung kính trên tầng thứ nhì. Có lúc tôi gọi điện thoại cho vợ để báo cáo tôi đang làm phóng sự, cần theo dõi một khất sĩ để biết ông là ai, có lái xe Mercedes hay không.
Trong khi vợ lo lắng, tôi ngắm bóng chiều đổ trên lưng áo vàng của khất sĩ đang đứng yên trong một ngày lạnh lẽo. Một lần đến thật gần, tôi thấy bàn chân bên trái của ông bị sưng vù với hai khối ghẻ đang mưng mủ. Cơ thể ông đẫm ướt mồ hôi chảy từ trên đầu bóng láng xuống tận bàn chân.
Suốt chiều hôm ấy tôi không thấy ông ăn uống, đi vệ sinh, hoặc nói một lời, chỉ đứng yên như một pho tượng. Thế nhưng cũng có lúc tôi thấy ông cử động. Lúc đó bãi xe chỉ có tôi đứng cách khất sĩ chừng mười thước. Tôi thấy bàn tay trái di chuyển rất chậm trong lúc nắp bình bát được hé mở với bàn tay phải. Tay trái nắm một mớ tiền giấy, từ từ đưa tiền ra ngoài. Tiền biến mất trước khi tôi có thể nhìn thật gần để biết tiền được đưa vào bên trong lớp vải trên tay áo hay bên dưới bình bát.
Ðến gần 6 giờ chiều, trong bóng đêm của mùa đông, khất sĩ từ từ nghiêng mình qua bên phải và bước xuống đất. Với những động tác rất khoan thai, ông xếp chiếc thang nhựa và cầm nó ở bên trong lớp vải cà sa. Thấy ông di chuyển, tôi liền chạy từ tầng thứ nhì xuống các bậc thang, nhìn theo bóng khất sĩ đang đi về hướng bên trái của bãi đậu xe.
Dọc theo hướng Nam trên Weststate Street, tôi thấy khất sĩ thường bước ra giữa đường, khiến xe phải lách qua một bên. Ðến Bishop Place, ông rẽ phải, hướng về một trạm xe bus trên đường Magnolia. Có lúc ông dừng chân, nhìn nghiêng phía bên trái như biết có người đang đi theo.
Trong thời gian chờ xe, khất sĩ đứng trên bãi cỏ nấp đằng sau trạm. Cũng từ lúc đó, tôi chợt nhớ loáng thoáng về một nhà sư mà tôi từng thấy tại trạm xe này nhiều năm trước. Trên chuyến xe số 33 chạy về hướng Bắc rời thành phố Westminster, tôi biết khất sĩ không sống ở Newport Beach. Ông cũng không lái xe Mercedes với bàn chân sưng vù, dày và khô nứt. Ðến một quãng xa Little Saigon, khất sĩ giật dây muốn ngừng xe. Ở góc đường đó chỉ có khất sĩ và tôi bước xuống. Ngoài xe cộ thỉnh thoảng qua lại, góc phố hoàn toàn vắng bóng người.
Tôi đi ngược hướng của ông. Ðợi ông đi xa khoảng 100 thước, tôi mới quay gót và đi theo. Trên con đường vắng, tôi vừa sợ vừa buồn cười trong bụng về tài thám tử của mình mỗi lần nấp đằng sau một cột điện khi thấy khất sĩ quay đầu lại. Một lúc kia ông bất ngờ chạy băng qua một đại lộ, mất hút trong màn đêm tại một ngã ba. Ðến lúc đó tôi vừa chạy vừa thầm nghĩ chắc nhà sư tưởng tôi là một tên cướp, muốn giật bình bát của ông.
Tại một ngã ba khác, ông thoăn thoắt quẹo phải. Rẽ vào con đường đó, một lần nữa tôi mất dấu khất sĩ. Ðúng lúc không còn hy vọng biết ông ở đâu, tôi bỗng thấy tượng Phật Bà bên ngoài một căn nhà có nhiều bụi cây, không được chăm sóc so với những nhà ở chung quanh. Bước đến nhà đó, chưa kịp quan sát, tôi thấy một bóng người trong phòng khách. Người này đưa tay kéo màn như muốn xem ai đang đứng ở bên ngoài. Mặc dù nhanh chân rời xa, tôi biết người nào đó trong phòng khách đã thấy bóng tôi trên lề đường. Ðợi thêm vài phút, tôi trở lại căn nhà. Nhìn vào phòng khách được vén màn, tôi thấy một tượng Phật vàng rất lớn, cao hơn một thước, tương tự như tượng Phật thường thấy ở nhiều ngôi chùa. Vậy là khất sĩ này lập chùa tại gia.
Tôi chắp tay xá một xá hướng về tượng Phật, xong quay gót tìm lối trở lại đại lộ. Trong bóng đêm, tôi lục tìm trong trí nhớ về một nhà sư và trạm xe bus mà tôi từng biết. Tuy không chụp hình chuyên nghiệp, tôi vẫn bấm máy mỗi khi thấy cảnh độc đáo. Một trong mấy bức hình mà tôi từng bấm là hình ảnh một khất sĩ đứng ở trạm xe. Hình ảnh đó mỗi lúc một rõ hơn trong lúc tôi đúng chờ vợ đến đón về. Sáng hôm sau tôi lục tìm trong những thùng đồ cất trong kho. Sau gần nửa tiếng đồng hồ bới tung, tôi tìm ra bức hình của một khất sĩ từng được đăng báo ở San Jose.
Khất sĩ mặc áo cam, đứng bên cạnh một tấm bảng quảng cáo hình một bàn chân che gần hết bảng. Hình chụp đầu Mùa Xuân 1999. Nhìn kỹ nét mặt, tôi nhận ra khất sĩ đó đúng là người mà tôi vừa theo chân đến tận nhà, chỉ khác là trẻ hơn, sạch hơn. Chú thích mà tôi từng ghi dưới tấm ảnh cho thấy khất sĩ năm xưa được 28 tuổi, tu ở Vô Ưu Phổ Ðịnh Phật Tự.
Và pháp hiệu của khất sĩ là Thích Trí Ðịnh.
Hình bên: “Ðứng tu như khất sĩ bên ngoài Phước Lộc Thọ có thể tạo ấn tượng sai lầm hoặc đưa đến những nhận xét báng bổ Phật giáo từ phía những người khác đạo,” một phụ nữ nói lên nỗi ưu tư về nhà sư khất thực.
“Phương pháp tu của ta là tu ẩn, không giống những người khác”






Bài và hình: Hoàng Mai Ðạt/Người Việt
WESTMINSTER, CA (NV) - Tìm được bức hình và pháp hiệu của khất sĩ, tôi ngẫm nghĩ bước kế tiếp trong công tác điều tra “ông sư đứng xin tiền” trước thương xá Phước Lộc Thọ. Một buổi chiều Thứ Sáu tôi đã chụp hình nhà sư ở thương xá. Ðến buổi tối tôi lên xe bus, bám sát theo ông về đến nhà. Nay tôi cần nói chuyện với nhà sư cho dù biết ông có thể không nói gì hết, hoặc nói rất ít như trong lần gặp gỡ ở một trạm xe gần chín năm trước. Lúc đó nhà sư từng nói tên ông là Thích Trí Ðịnh.
Ðợi đến sau giờ làm việc, tôi đi bộ đến khu Phước Lộc Thọ. Vào chiều Thứ Bảy cuối cùng của năm Dương Lịch, người địa phương và du khách từ nơi xa đã lũ lượt kéo về Little Saigon. Tỳ kheo Thích Trí Ðịnh vẫn đứng đó trên bậc thang trắng giữa bãi đậu xe phía trước thương xá.
Ông nhắm mắt, đứng yên như pho tượng màu vàng, tay ôm bình bát chờ khách cúng dường. Tỳ kheo là danh từ dành cho nhà sư khất thực. Tuy trời lạnh, tỳ kheo không hề rùng mình một lần nào. Mồ hôi vẫn chảy nhễ nhại từ trên đầu thấm xuống cổ áo. Lưng của ông vẫn dán những miếng vải bay lửng lơ theo gió chiều.
Ðến lúc trời tối hẳn, y như lần trước mà tôi từng thấy, khất sĩ từ từ nghiêng mình qua bên phải, chậm rãi xếp thang và luồn nó vào bên trong lớp áo cà sa. Ông cầm thang bằng tay phải, tay trái ôm bình bát.
Biết hướng đi của nhà sư, tôi đứng chờ gần góc đường Bolsa và Weststate. Nhằm bày tỏ thiện ý, tôi chắp tay chào “A di đà Phật” trước mặt tỳ kheo. “Chào thầy Thích Trí Ðịnh.” Tôi gọi ông là “thầy” cho dù chưa biết ông tu thật hay tu giả. Tôi cũng tin rằng bày tỏ sự tôn trọng sẽ dẹp bỏ bức tường cản giữa ông và tôi.
Khất sĩ dừng chân vài giây như suy nghĩ - sau này tôi khám phá ông thường im lặng một hồi lâu, có khi vài phút, trước khi trả lời - xong cúi đầu tiếp tục đi trên đường Weststate. Thấy tôi đi theo, ông bỗng quay hỏi, “Làm sao biết tên ta vậy?”
“Tôi từng gặp thầy mấy năm trước, từng chụp hình thầy tại một trạm xe,” tôi giải thích.
Nhà sư bỗng cắt ngang, “Hình như hôm qua... có theo ta mà phải không?”
“Ðúng. Xin lỗi thầy về chuyện đó,” tôi nói, hy vọng lấy được lòng tin của ông.
“Ta biết chứ. Cái tâm chân thật của ta biết chứ,” tỳ kheo Trí Ðịnh nói nhỏ với giọng của người miền Trung, lơ lớ như người Khánh Hòa, quê của tôi.
“Tôi là một người viết, muốn biết sự khó khăn của một nhà tu. Không phải ai cũng có thể khất thực được như thầy. Xin thầy cho biết thầy tu theo môn phái nào?”, tôi vừa hỏi vừa đi bên cạnh nhà sư, ngửi được mùi mồ hôi toát rất mạnh trong khí lạnh từ một cơ thể rắn chắc, khỏe mạnh. Tôi và nhà sư cao bằng nhau, cỡ trung bình của một người đàn ông Việt Nam.
Sau một hồi dừng chân và im lặng, tỳ kheo nói êm đềm, giọng hơi nghèn nghẹt như bị cảm lạnh, “Ðối với ta chỉ có mặt trời, mặt trăng, gió, đá, cây. Trong cái vô tịnh đó luôn luôn có trâu đất và trâu trắng, cứu cánh của đạo.”
Theo thiền tông, trâu đất hay trâu đen nói đến cái tâm chưa sạch. Trâu trắng là tâm không còn chướng ngại, không có tham và sân. Ðen và trắng cũng ám chỉ ác và thiện. Trong những câu trả lời, khất sĩ thường nói rất mơ hồ pha trộn những ý tưởng của đạo.
“Ta nói rất là khó hiểu, cho nên ta nói lái, nói tréo mà không nói thẳng,” tỳ kheo giải thích.
Lúc đó một chiếc pickup cũ bỗng dừng lại, đậu phía trước chúng tôi, chờ đưa khất sĩ về nhà. Có lẽ vì bị tôi theo dõi đêm hôm trước, khất sĩ tránh dùng xe bus như mọi lần.
Khi nghe tôi hỏi về vấn đề không ăn uống hoặc dùng phòng vệ sinh trong suốt thời gian khất thực, nhà sư trả lời, “Sự việc rất đơn giản. Tất cả đều do kinh nghiệm của thói quen được kiểm soát.”
Một thượng tọa ở Gardena từng đến hỏi khất sĩ rằng làm sao khất sĩ có thể đứng suốt ngày mà không tiểu tiện, và khất sĩ trả lời ông mặc tã dành cho người lớn. Nhìn mấy lớp vải mặc chung quanh khất sĩ trong bóng tối, tôi không thể đoán ông có mặc tã hay không.
Nhìn hai khối ghẻ sưng vù trên bàn chân trái của khất sĩ, tôi hỏi ông có đau không. Ông trả lời, “Nếu ta nhìn lại quá khứ của người trước thì ta mới cảm giác được sự hy sinh của những vị để lại nhục thân trải qua một con đường tu luyện. Ta cảm được cái sức mạnh, cái ánh sáng, và sự hy sinh.”
Biết người ngồi trong chiếc pickup đang chờ, với lại nghe khất sĩ nói “A di đà Phật” lần thứ nhì như muốn từ giã, tôi để cho khất sĩ lên xe và ngỏ lời chào ông tài xế đứng tuổi - mấy ngày sau tôi được biết ông tên Hùng. Trên đường đi bộ về nhà đêm hôm đó, tôi thắc mắc về phương pháp tu của khất sĩ, không biết hướng đi của ông đúng hay sai.
Tại quận Cam, một trong các nhóm Phật Giáo thường tổ chức những buổi thuyết pháp là Hội Phật Học Ðuốc Tuệ. Khi nghe về khất sĩ tại Phước Lộc Thọ, cư sĩ Mật Nghiêm của Hội Phật Học Ðuốc Tuệ cho biết ông cũng từng đến gần và tìm hiểu về khất sĩ.
“Qui luật nhất định là không đứng quá buổi trưa,” cư sĩ Mật Nghiêm nói. “Ðứng khất thực suốt ngày thì còn thời giờ nào để tu, để học, để làm Phật sự. Tối về là mệt rồi. Chúng ta phải hiểu đi khất thực là mang nợ, là vay nghiệp. Chúng sinh đưa tiền cho ông là để ông làm Phật sự. Theo luật của Phật, thứ nhất không được khất thực quá trưa, thứ hai không được lấy tiền. Dứt khoát là như vậy.”
Một nữ Phật tử với pháp danh Mỹ Ngọc, sống tại Westminster, cho biết, “Nếu ở một xứ Phật Giáo như Tích Lan hoặc Thái Lan, một nhà sư có đứng tu ở ngoài đường như vậy thì cũng chẳng sao, không là một vấn đề hệ trọng. Thế nhưng tại một xứ sở có nhiều tôn giáo như nước Mỹ, tôi e rằng đứng tu như khất sĩ bên ngoài Phước Lộc Thọ có thể tạo ấn tượng sai lầm hoặc đưa đến những nhận xét báng bổ Phật Giáo từ phía những người khác đạo.”
Khi nghe tôi trình bày về trường hợp của khất sĩ, Hòa Thượng Thích Hạnh Ðạo tại chùa Phổ Ðà, Santa Ana cho biết, “Trong Phật Giáo có một điều được gọi là vô lượng pháp môn tu, tức là có vô số cách để tu. Kiểu của ông ấy có thể là một trong các pháp môn mà mình không biết, nên không thể nói được.”
Cũng tại chùa Phổ Ðà, một Phật tử với pháp danh Tâm Phú cho biết ông từng nghe về nhà sư đứng khất thực bên ngoài Phước Lộc Thọ.
“Theo tôi nghĩ thì ông ấy không nên đứng ở đó,” cư sĩ Tâm Phú nói. “Cái hạnh tu thì ở chỗ nào cũng vậy thôi, nhưng mà không nên đứng đó. Người ta nói ra nói vào, không tốt. Chỗ đó là cái chợ mà.”
“Nhưng mà có thể ông làm như vậy để nhiều người nổi sân lên,” cư sĩ Tâm Phú nói tiếp. “Ở trong kinh Pháp Hoa, phẩm 20, có một vị bồ tát được gọi là Thường Bất Khinh Bồ Tát. Ði đâu Thường Bất Kinh Bồ Tát cũng nói với mọi người là ‘Anh sẽ thành Phật.’ Gặp ai ông cũng nói như vậy. Ông nói hoài làm người ta tức mình, người ta chửi, người ta đánh ông. Nhưng ông cứ nói miết câu đó. Hành động của ông cũng gieo cho người ta một cái duyên tốt. Những người chửi ông sau cũng thành Phật.”
Trong bộ Phật Học Từ Ðiển của Ðoàn Trung Còn (xuất bản năm 1997 tại Việt Nam), một đoạn cho biết Thường Bất Khinh Bồ Tát vẫn đứng yên cho dù bị đánh hoặc bị chửi, và miệng luôn nói với người lạ, “Tôi chẳng dám khinh ngài, vì ngài sẽ thành Phật.” Vị bồ tát này sống trong thời Tượng Pháp, tức là khoảng thời gian từ 100 năm trước Công Nguyên đến thế kỷ thứ 10.
Vào sáng Thứ Hai và cũng là buổi sáng cuối cùng của năm 2007, trước khi đến tòa soạn Người Việt, tôi lái xe ghé nhà của tỳ kheo Trí Ðịnh. Thấy chiếc thang nhỏ màu trắng nằm dưới mái hiên, tôi biết khất sĩ chưa rời nhà. Một người đàn ông cao ốm bước ra ngoài. Ông mặc quần áo cũ, nói một câu tiếng Anh với người đứng ở bên trong. Tuy có mái tóc đen muối tiêu, ông ta không có vẻ là người Việt Nam. Vài giây sau khất sĩ bước ra. Thấy tôi không cầm theo túi xách hoặc máy ảnh, khất sĩ gật đầu chào “A di đà Phật,” xong cầm thang và bước đến gần tôi như người quen.
Lúc đứng bên tôi vài phút, khất sĩ nhìn một thân cây sát trước mặt, nói nhỏ như nói với cây. Tôi chỉ nghe được một đoạn. “Phương pháp tu của ta là tu ẩn, không giống những người khác,” khất sĩ nói. Ðầu của ông được bôi trắng với kem chống nắng.
Nếu là “tu ẩn” thì tại sao lại xuất hiện giữa chợ? Khất sĩ không trả lời câu hỏi của tôi. Ðúng lúc đó Vick - tên của người đàn ông tóc muối tiêu - thúc giục khất sĩ lên xe. Tôi nghe tỳ kheo Trí Ðịnh trả lời bằng tiếng Anh lưu loát với tài xế.
Ông Vick lái một chiếc xe màu đen hai cửa rất cũ, bừa bộn với sách vở, quần áo, tiền cắc vất tứ tung. Tôi mở cửa cho khất sĩ bước vào ghế trước, cẩn thận vén tà áo của ông vào bên trong cánh cửa. Tuy không lái theo chiếc xe cũ đó, tôi đoán khất sĩ sẽ ra đứng ở Phước Lộc Thọ như bữa trước.
Thầy Thích Hạnh Ðạo tại chùa Phổ Ðà cho biết, “Trong Phật Giáo có nói có tám vạn bốn ngàn cái phiền não, cho nên mới có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, mỗi pháp môn tu để diệt trừ mỗi cái phiền não.”
Tôi suy ngẫm về pháp môn “tu ẩn” của tỳ kheo Trí Ðịnh, không hiểu tỳ kheo muốn diệt cái phiền não nào.
<!--@vbbanners:0@-->