Trở Về Trang Gốc Lịch Sử Việt Nam   

Lịch Sử Việt Nam - phần 12




111. Hồ Chí Minh, lãnh tụ đảng Cộng Sản Việt Nam: Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung sinh năm 1890 và chết năm 1969. Người ta không biết chắc chắn ngày sinh và ngày chết của Hồ Chí Minh vì ông và đảng Cộng Sản thường đưa ra nhiều ngày giả khác nhau để dối gạt người khác. Hồ Chí Minh gia nhập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, là một trong những người thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ đã làm chủ tịch nước nhiều năm cho đến khi chết. Theo những tài liệu mới tìm được, Hồ đã từng cung kính xin chỉ thị của Stalin trong đề án Cải Cách Ruộng Đất, giết hại hàng trăm ngàn nông dân miền Bắc. Hồ cũng từng gởi thư cho Quốc Tế Cộng Sản ở Cẩm Linh, yêu cầu trả lương cá nhân 150 đô la một tháng để Hồ làm việc cho họ trong công tác ở Đông Dương. Đây là bằng chứng rõ rệt cho thấy Hồ lãnh lương và làm tai sai cho đế quốc Liên Xô. Theo sự tuyên truyền của đảng Cộng Sản Việt Nam thì Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước vĩ đại, đã xuất ngoại tìm đường cứu nước và tình nguyện sống độc thân, hết lòng phục vụ quốc gia. Nhưng càng ngày người ta càng tìm thấy nhiều bằng chứng Hồ Chí Minh đã ăn ở bất chánh với nhiều phụ nữ, kể cả vợ của đồng chí mình là bà Nguyễn Thị Minh Khai. Có ít nhất là 5 phụ nữ dính líu tới Hồ Chí Minh đã bị bí mật thủ tiêu trong đó có cô Nông Thị Xuân là một nữ y tá săn sóc Hồ. Trong tập hồ sơ cũ của Pháp, người ta tìm thấy đơn xin gia nhập Trưng Thuộc Địa Pháp của Hồ Chí Minh với lời lẽ thành khẩn nhưng bị từ chối. Hồ Chí Minh là một trong những người chỉ huy cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất đã giết hại oan khuất trên 100 ngàn nông dân, trí thức ở miền Bắc Việt Nam. Sau khi chết, Hồ Chí Minh được được ướp xác như một vị vua, và được đặt vào một cái lăng bằng đá cẩm thạch xa xỉ, tốn kém.


Một buổi họp các tay đồ tể của nhân loại vào năm 1959: Kruschev, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh

Ho Chi Minh, the leader of Vietnamese communist party: Ho Chi Minh's real name was Nguyen Sinh Cung. He was born in 1890 and died in 1969. People don't know his real birth and death dates since he and the communist party provided several different dates to deceive people. Ho Chi Minh joined the Third International Communist Committee and was one of the founders of Vietnamese Communist party. He was the chairman of the North Vietnam for many years until he died. According to the propaganda of the Vietnamese Communist party, Ho Chi Minh was a great patriot who went abroad to look for a way to save our country and volunteered to live in celibacy to completely serve the country. But gradually, people have found more and more evidences which showed that Ho Chi Minh had unlawfully lived with many women, even with a wife of his comrade, Mrs. Nguyen Thi Minh Khai. There were at least five women related to his sex life were secretly killed, including Nong Thi Xuan who was Ho’s private nurse. Old documents in French literary treasure showed that Ho Chi Minh turned in an application for admission to the French Colonial School but he was denied. Ho Chi Minh was one of the commanders of the Land Reform in which landlords were accused in “public trial”. Land Reform unjustly killed more than 100 thousand peasants and intellectuals of the North. After his death, Ho Chi Minh’s body was treated and installed in a huge and luxurious marble building.


Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng.

Hô Chi Minh, le dirigeant du Parti communiste viêtnamien: Le vrai nom de Hô Chi Minh était Nguyên Sinh Cung. Il naquit en 1890 et mourut en 1969. Les gens ne connaissent pas les dates réelles de sa naissance et de son décès puisque lui et le parti communiste ont fourni plusieurs dates différentes pour les tromper. Hô Chi Minh rejoignit le Comité de la Troisième Internationale communiste et fut l'un des fondateurs du parti communiste viêtnamien. Il fut le président du Viêt-Nam du Nord pendant de nombreuses années jusqu'à sa mort. Selon la propagande du Parti communiste viêtnamien, Hô Chi Minh fut un grand patriote qui partit à l'étranger pour trouver un moyen de sauver notre pays et fut volontaire pour vivre dans le célibat pour servir complètement le pays. Mais peu à peu, les gens trouvèrent de plus en plus de preuves qui montraient que Hô Chi Minh avait illégalement vécu avec beaucoup de femmes, même avec une femme de son camarade, Mme Nguyên Thi Minh Khai. Il fréquenta au moins cinq femmes qui furent secrètement tuées, dont Nông Thi Xuân qui était l’infirmière personnelle de Hô. Des vieux documents du trésor littéraire français ont montré que Hô Chi Minh envoya une demande d'admission à l'école coloniale française, mais sa candidature fut refusée. Hô Chi Minh fut un des commandants de la réforme agraire dans laquelle les propriétaires furent accusés dans « un procès public ». La réforme agraire tua injustement plus de 100000 paysans et intellectuels du Nord. Après sa mort, le corps de Hô Chi Minh fut embaumé et installé dans un bâtiment énorme et coûteux en marbre.

Qua các hội đoàn ngoại vi của đảng Cộng Sản Việt Nam như Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu nhi, Hội Phụ nữ, Công đoàn, Mặt trận Tổ quốc ..., Cộng Sản bắt dân chúng liên tục đến thăm lăng Hồ trong nhiều năm. Có cả những đội khóc mướn, giả dạng thường dân khóc than kể lể thương yêu Hồ. Trong khi sự thật cuộc đời thì đa số nhân dân oán ghét, căm hận chế độ độc tài Cộng Sản.
Le parti communiste a formé et préparé des groupes de jeunes de femmes d’enfants, de syndiqués… Il a obligé le peuple à visiter le tombeau de Hô chi Minh pendant plusieurs années. Ils ont formé des groupes de pleureurs chargés d’exprimer leurs regrets de la perte de l’amour d’Hô Chi Minh. Alors qu’en réalité c’est le personnage le plus haï par le peuple pour sa dictature autoritaire.

Một nghệ sĩ dân gian dùng hình ảnh lăng tẩm Hồ Chí Minh biểu lộ ước muốn của đại đa số nhân dân Việt Nam: một ngày trong tương lai, người dân biến lăng tẩm Hồ Chí Minh thành Viện bảo tàng Tội ác Hồ Chí Minh.

112. Trường Chinh: Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu, làm tới chức Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trường Chinh là nhân vật đầu não chỉ huy cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất giết hại nông dân giỏi và trí thức ở miền Bắc Việt Nam vào những năm 1952-1956. Xuất thân từ một gia đình khá giả, Trường Chinh tuyên bố ly khai gia đình đi theo đảng Cộng Sản. Chính Trường Chinh nắm tóc, lôi cha ruột mình giữa chợ, và kêu cha bằng mầy trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Với những việc làm mất nhân tính như thế Trường Chinh có uy tín trong đảng Cộng Sản và được cho giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đảng.

Truong Chinh: Chinh’s real name was Dang Xuan Khu. He was the secretary of the Vietnamese communist party. Truong Chinh was the person who ordered the implementation of Land Reform, which killed hard working farmers and intellectuals in the North in the years 1952-1956. He came from a middle class family but disassociated himself from his family to join the Communist party. Truong Chinh himself pulled his father’s hair and dragged his father in a public trial during the Land Reform campaign. He was credited by the Communist party for accusing his father with this disrespectful behavior. Truong Chinh was respected in the communist party and was a high-ranking officer in the party.

Truòng Chinh: Son vrai nom était Dang Xuân Khu. Il fut secrétaire du parti communiste viêtnamien. Truòng Chinh fut la personne qui ordonna la mise en œuvre de la réforme agraire qui tua des agriculteurs qui travaillaient durement et des intellectuels dans le Nord dans les années 1952-1956. Il venait d'une famille de classe moyenne, mais se dissocia de sa famille pour rejoindre le Parti communiste. Truòng Chinh fut crédité par le Parti communiste pour avoir accusé son père en le traînant par les cheveux jusqu’au marché au vu et sus de tous pendant la réforme agraire. Il fut respecté au sein du parti communiste et fut un officier de haut rang du parti.

Hình chụp của 1 phóng viên Liên Xô: Một cảnh đấu tố tại miền Bắc có hình thờ các lãnh tụ Cộng sản được treo trên cao. Trong hình một thanh niên có vẽ có học thức, đang bị Cộng Sản đấu tố. Cán bộ Cộng Sản ngồi trên bàn chủ tọa. Nông dân nghèo được khích động, hứa hẹn chia của và huấn luyện sẵn để đánh đập, sỉ vả, kết tội người bị đấu tố.
Ce sont des photos d'un journaliste soviétique: Sur la première photo, sont accrochés en hauteur les portraits des dirigeants communistes. En dessous se tiennent des fonctionnaires communistes. Devant des paysans pauvres, l’un après l’autre, réprimandent un bourgeois encourageant la population spectatrice à approuver et à le passer à tabac.

113. Cải cách ruộng đất: Cải cách ruộng đất là một chiến dịch do Cộng Sản phát động ở ngoài miền Bắc vào các năm 1952-1956, theo khuôn mẫu của Trung Cộng và Liên Xô. Người ta tìm thấy thư của Hồ Chí Minh cung kính xin chỉ thị của Stalin, Liên Xô, trong công tác giết hại nhân dân Việt Nam đẫm máu nầy . Một số dân bất lương, nghèo đói được đảng Cộng Sản huấn luyện đấu tố, chửi bới những nông dân khá giả, những người làm ăn giỏi trong làng rồi đem họ ra xử bắn, chém đầu, chôn sống, phơi nắng cho đến chết. Những nông dân nầy bị xử tử bởi những cán bộ Cộng Sản, không qua một tòa án chính thức, và không được quyền biện hộ cho mình. Cộng Sản không cho biết là họ đã giết bao nhiêu người, nhưng người ta ước lượng có gần 200 ngàn nông dân, trí thức bị giết. Khẩu hiệu của Cộng Sản trong thời gian nầy là ''Giết nhiều chia nhiều '' để khuyến khích cán bộ Cộng Sản giết dân và được chia của. Tài sản của người chết bị tịch thu phần lớn chia cho đảng Cộng Sản, một phần chia cho những người tố họ. Đảng Cộng Sản khuyến khích con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy khiến cho xã hội miền Bắc rối loạn về đạo đức, thiếu vắng người trí thức. Con cháu của nạn nhân bị đuổi đi về những vùng rừng sâu nước độc và bị đối xử phân biệt, mất những quyền lợi của những công dân bình thường. Những ảnh hưởng xấu của cuộc tàn sát nầy lên xã hội vẫn còn tác hại đến ngày hôm nay. Trong khi miền Nam dạy học sinh hòa bình, thương yêu và kính trọng thì miền Bắc dạy người dân giết chóc, hận thù. Trong vài hình chụp hiếm hoi của một cuộc đấu tố do một phóng viên Liên Xô ghi nhận được, người ta thấy các hình ảnh của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và Stalin được treo trên cao, ở vị trí trang trọng tôn thờ, là những biểu tượng tinh thần cho các cuộc giết chóc đẫm máu. Các câu thơ sau đây của Tố Hữu, bộ trưởng bộ Giáo Dục miền Bắc, được truyền bá rộng rãi trong dân chúng trong thi kỳ đen tối trên, khuyến khích cán bộ Cộng sản giết dân để chiếm đất, thâu thuế và để tôn thờ các tay Cộng sản cuồng sát của nhân loại :
"Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt !"

Land Reform: Land Reform was a campaign that followed the pattern of China and was promoted by Vietnamese communists. The campaign was operated in Northern Vietnam in 1952-1956. A significant number of dishonest, bad and poor people were trained by the communists to wrongly accuse hard working farmers, businessmen and intellectuals in public trials in their villages. Then these innocent people were beheaded or buried alive or exposed to the sunlight until they died. These poor victims were tried and killed without formal court proceedings and had no right to defend for themselves. Of course, the Communists didn’t announce the number of people they killed in the Land Reform. There were approximately more than 100,000 farmers and intellects killed. The slogan of the communist party in this period was “kill more, receive more” to encourage communist cadres to kill innocent people. The communist party confiscated properties of these dead people and gave some to the accusers. The communist party encouraged children to accuse their parents, husbands and wives to accuse each other, and students to accuse their teachers. Consequently, the North was greatly disordered in morality and lack of intellectuals. The descendants of the victims were expelled to uninhabited areas and were discriminated against. The bad effects of Land Reform massacres have continued in society until today. While the South tough their children love and peace, the North tough hating and killing. The following poems of To Huu were publicized at that time to encourage the communist cadres to kill, to collect tax and to worship the international murderers:
"Kill, kill more and don’t stop,
For the green rice field and for fast tax collection,
For our party long lasting and for our people to have the same heart beats,
To worship Mao and Stalin forever !"

Réforme agraire: la réforme agraire fut une campagne qui suivit le modèle de la Chine et fut promu par les communistes viêtnamiens. La campagne fut menée dans le nord du Viêt-Nam en 1952-1956. Un nombre important de malhonnêtes, de mauvais et pauvres gens furent formés par les communistes pour accuser à tort des agriculteurs qui travaillaient dur, des hommes d'affaires et des intellectuels dans des procès publics dans leurs villages. Ces personnes innocentes furent ensuite décapitées ou enterrées vivantes ou exposées à la lumière du soleil jusqu'à leur mort. Ces pauvres victimes furent jugées et tuées sans procédure judiciaire formelle et n'eurent pas le droit de se défendre par eux-mêmes. Bien sûr, les communistes n’annoncèrent pas le nombre de personnes qu'ils avaient tuées durant la réforme agraire. Il y eut environ plus de 100.000 agriculteurs et intellectuels tués. Le slogan du parti communiste durant cette période fut de « tuer plus, percevoir plus » pour encourager les cadres communistes à tuer des gens innocents. Le parti communiste confisqua les propriétés de ces morts et en donna à ses accusateurs. Le parti communiste encouragea les enfants à accuser leurs parents, maris et épouses de s’accuser l'un l’autre et les étudiants à accuser leurs enseignants. Par conséquent, le Nord vit la morale mise à mal et subit le manque d'intellectuels. Les descendants des victimes furent expulsés vers des zones inhabitées et furent victimes de discriminations. Les effets des massacres de la réforme agraire continuent à se faire sentir dans la société jusqu'à aujourd'hui. Si le Sud pratiquait l’amour des enfants et de la paix, le Nord pratiquait la haine et la tuerie. Les poèmes suivants de Tô Huu furent diffusés à l'époque pour inciter les cadres communistes à tuer, à percevoir l'impôt et à adorer les meurtriers internationaux:
« Tue, tue plus et ne t’arrête pas,
Pour la rizière verte et la collecte rapide de l'impôt,
Pour notre parti longue vie et pour notre peuple avoir les cœurs battant à l’unisson,
Pour le culte de Mao et Staline pour toujours! »

Người bị đấu tố sắp bị bắn

Người bị đấu tố vừa bị bắn chết trước sự chứng kiến của dân chúng. Tài sản người bị đấu tố thường bị tịch thu, gia đình người bị đấu tố bị đuổi ra khỏi nhà. Thân nhân bị cô lập, không được hành nghề, không được làm mướn. Hàng triệu người miền Bắc là nạn nhân của Cộng Sản, đã sống trong tình trạng đói khổ, cùng quẩn suốt cuộc đời. Phần lớn những người bị đấu tố chỉ là những nông dân giỏi, khá giả nhờ vào tài sức của mình. Họ đã bị giết chết, bị cướp đọat tài sản một cách oan uổng
Finalement le bourgeois est exécuté publiquement. Sa famille est chassée dans la rue. Elle est isolée. Ces membres ont l’interdiction de travailler. Des millions de personnes ont été des victimes des communistes du Nord. Ils ont vécu dans un état de pauvreté toute leur vie. Ces gens étaient de bons agriculteurs. On leur a volé injustement tous leurs biens.



Cảnh đồng bào miền Bắc trốn chạy Cộng sản
tại Hải Phòng năm 1954. Nguồn ảnh: Corbis

114. Cuộc di cư năm 1954: Hiệp định Geneve được ký kết giửa thực dân Pháp và Việt Cộng để chia đôi đất nước năm 1945. Nhiều đồng bào miền Bắc biết được sự tàn ác của Cộng Sản đem gia đình trốn chạy vào Nam. Một mặt Cộng Sản cho thanh niên nam nữ giữ đồng bào ở lại, một mặt họ cho binh sĩ bắn vào thuyền, vào đồng bào di cư. Số người chết đếm không xiết. Tổng cộng trên 1 triệu người trốn được vào Nam, được chính quyền tiếp đãi tử tế. Rất nhiều người Bắc di cư đã thành công và có đời sống mới tốt đẹp ở miền Nam.

The evacuation in 1954: The Geneva agreement was signed by the French colonists and the Viet Cong in 1954 to divide our country with the Ben Hai river as the border. The North was under communism, while the South was trying to form a democratic and republic government. The agreement allowed the Vietnamese to select their own destinations. Many Northerners who understood the cruelty of communists fled to the South. To stop people from escaping to the South, the communists had two strategies. On one hand, they ordered young adults to induce people to stay; on the other hand, they ordered communist soldiers to fire at the boats of fleeing people. The dead people in this time were uncountable. More than 1 million people who escaped to the South were welcomed and treated well by the Southern government. Many of the Northerners succeeded in the South.


Nguồn ảnh: Corbis

L'évacuation en 1954: L'accord de Genève fut signé par les colons français et le viêt-công en 1954 pour diviser notre pays en deux avec la rivière Bên Hai comme la frontière. Le Nord se trouva sous le régime communisme alors que le Sud essaya de former un gouvernement démocratique et républicain. L'accord permit aux viêtnamiens de choisir leur camp. De nombreux habitants du Nord qui avaient compris la cruauté des communistes fuirent vers le Sud. Pour les en empêcher, les communistes eurent deux stratégies. D'une part, ils ordonnèrent aux jeunes d’inciter les adultes à rester, d’autre part, ils ordonnèrent à des soldats communistes de faire feu sur les bateaux des gens en fuite. Les morts en cette période furent innombrables. Plus d’un million de personnes qui s’échappèrent vers le Sud furent accueillies et bien traitées par le gouvernement du Sud. Beaucoup d’habitants du Nord réussirent à passer au Sud.

115. Phạm Văn Đồng lén lút bán nước cho Trung Cộng: Phạm Văn Đồng là Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc. Năm 1958, theo lệnh đảng CSVN Phạm Văn Đồng đã lén lút ký kết nhìn nhận chủ quyền Trung Cộng trên 2 quần đảo quý là Trường Sa và Hoàng Sa, không được sự đồng thuận của người dân Việt. Vì thế khi Trung Cộng mang tàu chiến tấn công Hoàng Sa năm 1974, hải quân miền Nam đã chống trả mãnh liệt, nhiều chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, trong khi quân đội miền Bắc tỏ thái độ im lặng của kẻ bán nước. Ngày nay Trung Cộng vẫn còn tiếp tục chiếm giữ một số đảo của 2 quần đảo trên dù rằng chỉ có Việt Nam là nước có bằng chứng cụ thể về chủ quyền 2 quần đảo đó trong những sách sử từ thời cổ xưa.


Phạm Văn Đồng trên đường đi dự Hội nghị Geneve để chia đôi đất nước, được các tên Cộng sản Gromeko và Chu Ân Lai đón tiếp

Bài đọc thêm: Trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974

Pham Van Dong offered our islands to China: Pham Van Dong was the Prime Minister of the northern government. With approval from the Communist party, in 1958, Pham Van Dong secretly signed an offer to recognize the Chinese authority on two precious archipelagoes, Truong Sa and Hoang Sa, without agreement of the Vietnamese people. When Chinese warships attacked Hoang Sa in 1974, the Southern navy bravely fought back and many soldiers died while northern communist soldiers just stayed still. Today the Chinese communists still occupy some islands in these two archipelagoes even though Viet Nam is the only country that had evidence from old documents and history books for its authority over these two archipelagoes.


Bốn chiến hạm của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã tham dự trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ lãnh thổ vào năm 1974. Chiến hạm HQ-10 trúng đạn vào pháo tháp bị chìm tại trận, chiến hạm HQ-16 bị hư hại nặng nghiêng 15 độ, chiến hạm HQ-5 và HQ-4 bị hư nhẹ. Gần 50 thủy thủ và hạm trưởng Ngụy Văn Thà của HQ-10 tử vong. Ngoài ra HQ-5 có 3 quân nhân tử vong và 16 bị thương.

Pham Van Dông offre nos îles à la Chine: Pham Van Dông fut le premier ministre du gouvernement du Nord. Avec l'accord du parti communiste, en 1958, Pham Van Dông signa secrètement un accord de reconnaissance de l'autorité chinoise sur deux archipels précieux, Truòng Sa et Hoàng Sa, sans l'accord du peuple viêtnamien. Lorsque les navires de guerre chinois attaquèrent Hoàng Sa en 1974, la marine du sud contre attaqua vaillamment et de nombreux soldats moururent tandis que les soldats communistes du Nord ne bougèrent pas. Aujourd'hui, les communistes chinois occupent encore certaines îles dans ces deux archipels, bien que le Viêt-Nam soit le seul pays qui ait des preuves à partir de vieux documents et livres d'histoire de son autorité sur ces deux archipels.

Đây là văn kiện bán nước do Phạm Văn Đồng ký năm 1958. May mắn thay, văn bản nầy không có hiệu lưc. Vì 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở phía Nam vỉ tuyến 17, nên vào thời điểm trên, các quần đảo nầy thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Việt Cộng không có thẩm quyền trên 2 hòn đảo quý của đất nước, chúng không có quyền bán hay nhượng lại cho bất kỳ thế lực ngoại bang nào.
Ceci est un document de vente de deux îles : Hoàng Sa et Truòng Sa signé par Pham Van Dông en 1958. Heureusement, ce texte n'avait aucune valeur car ces deux îles sont situées au sud du 17e parallèle de sorte qu’elles appartenaient au territoire de la République du Viêt-Nam. Le Viêt-Nam Communiste n’avait aucune compétence sur ces deux îles. Ils n’avaient pas le droit de les vendre ou de les céder à aucune puissance étrangère.


116. Đời sống và xã hội miền Bắc từ năm 1954 đến 1975: Miền Bắc là một xứ nông nghiệp lạc hậu, dùng sức người thay máy móc và trâu bò. Dân chúng phải làm việc cực khổ và không được hưởng những sản phẩm họ làm ra. Gạo và thức ăn do nhà nước quản lý và phát lại cho dân. Do những quá trình phân phối phức tạp và vô trách nhiệm, thực phẩm được phân phối đầy đủ đến các cán bộ cao cấp, nhưng khi đến tay người dân thì rất ít, mà phần lớn đã bị thất thoát, hư thối. Hậu quả là người dân miền Bắcthiếu dinh dưỡng, và lao động với năng suất rất thấp. Trong khi thế giới và miền Nam phát triển nhanh chóng, xã hội miền Bắcdậm chân tại chỗ. Chánh quyền cô lập người dân miền Bắc với thế giới bên ngoài. Dân chúng không được tiếp xúc với người ngoại quốc hay thân nhân ở miền Nam và chỉ được đọc sách báo do người Cộng Sản phát hành. Vì sợ nhân dân nghe những đài phát thanh ngoại quốc, radio bán ra ở miền Bắc được sửa đổi đ chỉ nghe được đài phát thanh của nhà cầm quyền. Người dân không có những quyền tự do căn bản, có thể bị bắt, bị trừng trị, bị nhốt, bị thủ tiêu mà không cần được xét xử bởi tòa án. Những cuộc tàn sát và bắt giam tập thể trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất và vụ án Giai Phẩm Nhân Văn làm cho người dân miền Bắc kinh hoàng, cúi đầu tuân lệnh cho đảng Cộng Sản độc tài trong một nguyên tắc gian lận "Dân Chủ Tập Trung". Trong khi ở miền Nam dân chúng được sống yên vui, sung túc thì Cộng Sản mô tả miền Nam như một nơi đau khổ, nơi dân chúng chịu đựng mọi sự hành hạ, bất công. Sự tuyên truyền tinh vi đến độ nhiều người dân miền Bắc nghĩ rằng họ cần phải đánh chiếm miền Nam để giải phóng đồng bào của họ.

The life in Northern society from 1954 to 1975: The North was an underdeveloped farming country which used human labor instead of machinery and plow buffalo. People were forced to work very hard without possession of their products. Rice and farming products were portioned out to the people in very limited quantities. Due to the complicated distributing process and irresponsible cadres, food and other products were given in plenty to abundance to high-ranking officers while working people got a little. Much of the food was stolen or rotted in that bad distributing process. The consequent effect was that most of northern people were under nourished so they worked with low productivity. While the world and the South were developing quickly, the North remained undeveloped. The northern government isolated northern people from the outside world. People were not permitted to contact foreigners or relatives living in the South. Northern people were only allowed to read books and magazines that were published by the northern government. To prevent people from listening to foreign broadcasting programs, the communist government ordered the modification of the radios for sales so that they could only received the broadcast programs from the communist government. The northern people had no basic human rights. People could be arrested, imprisoned, and executed without being examined by a formal court. The massacre and the imprisonment of people in the Land Reform, and in the Giai Pham Nhan Van terrified the North Vietnamese, forcing them to obey the communist dictators who used a cheating principle “Centralized Democracy”. While people in the South lived a happy life, northern communists described the South as a bad place where people were tortured and treated unjustly. The propaganda was so sophisticated and wicked that many northern people thought that they had to fight to liberate their people in the South

La vie dans la société du Nord de 1954 à 1975: le Nord était un pays agricole sous-développé qui utilisait le travail manuel, au lieu de machines et les buffles pour le labour. Les gens étaient obligés de travailler très dur sans pouvoir bénéficier de leurs produits. Le riz et les produits agricoles étaient rationnés au peuple en quantités très limitées. En raison de processus de distribution complexes et des cadres irresponsables, de la nourriture et autres produits étaient donnés en abondance à des officiers de haut rang alors que les travailleurs obtenaient peu. Une grande partie de la nourriture était volée ou pourrissait dans ce mauvais processus de distribution. La conséquence en était que la plupart des gens du Nord étaient sous-alimentés de sorte qu’ils travaillaient avec une faible productivité. Alors que le monde et le Sud se développaient rapidement, le Nord restait peu développé. Le gouvernement du Nord isolait son peuple du monde extérieur. Les gens n'étaient pas autorisés à communiquer avec des étrangers ou des parents vivant dans le Sud. Les gens du Nord étaient uniquement autorisés à lire des livres et des magazines publiés par le gouvernement du Nord. Pour empêcher les gens d'écouter des émissions de radiodiffusion étrangères, le gouvernement communiste ordonna la modification des radios vendues, afin qu'ils ne puissent recevoir que les programmes diffusés en direct par le gouvernement communiste. Les gens du nord n'avaient pas de droits humains fondamentaux. On pouvait être arrêté, emprisonné et exécuté sans être passé par un tribunal officiel. Le massacre et l'emprisonnement de personnes dans la réforme agraire et le Giai Phâm Nhân Van terrifia les Nord-viêtnamiens, les forçant à obéir aux dictateurs communistes qui utilisèrent un principe de tricherie « le centralisme démocratique ». Alors que les populations du Sud vivaient une vie heureuse, les communistes du Nord décrivaient le Sud comme un mauvais endroit où les gens étaient tourmentés et traités injustement. La propagande était tellement sophistiquée et méchante que de nombreux gens du Nord pensaient qu'ils devaient se battre pour libérer leur peuple du Sud.



117. Hệ thống quyền hành và luật pháp Cộng Sản: Về hình thức, tổ chức quyền hành Cộng Sản cũng có các ngành Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp như những nước dân chủ khác. Nhưng tuyệt đối không có phân quyền, đảng Cộng Sản mới là cơ quan có thực quyền lãnh đạo quốc gia, dù rằng họ luôn miệng nói rằng nhân dân là những người làm chủ đất nước. Nhân viên của 3 ngành nói trên đều do đảng Cộng Sản lựa chọn và kềm chế, nên cả 3 ngành đều phải hoạt động theo chỉ thị của đảng Cộng Sản và cho quyền lợi của đảng Cộng Sản, chớ không hoạt động cho phúc lợi của người dân. Tất cả báo chí, truyền thanh, truyền hình đều do đảng Cộng Sản chỉ huy. Tin tức trong nước, ngoài nước đều bị kiểm soát chặt chẽ và được sửa đổi có lợi cho chính quyền Cộng Sản. Người dân không được có tiếng nói đối lập. Người dân không thực sự có quyền bầu cử, ứng cử. Họ chỉ có thể đi bầu những viên chức địa phương và đại biểu Quốc hội từ danh sách đã được chọn sẵn của đảng Cộng Sản đưa ra. Xã hội cũng có luật pháp nhưng luật pháp được áp dụng theo ý muốn của đảng Cộng Sản chớ không theo lẽ phải. Những đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản và thân nhân của họ là những siêu công dân, thường không bị truy tố bởi luật pháp như những người dân thường. Khi cần thủ tiêu một người đối lập, họ gán cho người đó một tội danh mơ hồ và không được định nghĩa trong luật pháp như tội '' chống đảng'', ''phản cách mạng'' hay ''chống nhân dân''. Ban chấp hành Trung Ương đảng Cộng Sản, cơ quan có thực quyền lãnh đạo và quyết định mọi việc lớn nhỏ của đất nước lại không do dân bầu, nên không có dân chủ và cũng không chấp nhận thực thi dân chủ. Mọi quyết định của nhà cầm quyền đều nhằm mục đích làm lợi cho các uỷ viên cao cấp của đảng Cộng Sản chớ không dựa vào phúc lợi của đất nước hay của người dân. Hậu quả là các đảng viên cao cấp và gia đình lúc nào cũng có đời sống sung túc trong khi người dân sống đi nghèo khổ. Nếu chỉ đọc sách báo của người cộng sản, người ta sẽ nghĩ rằng người dân Việt Nam là chủ nhân thật sự của đất nước và có mọi quyền tự do. Sự thật là người dân không hề có nhân quyền tức những quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do ứng cử, bầu cử. Mọi sự tập họp sinh hoạt đảng phái, mọi tiếng nói của người dân đòi hỏi nhân quyền, đòi hỏi các quyền tự do căn bản đều bị cấm chỉ, trù dập thậm chí bị bí mật thủ tiêu không qua xét xử của tòa án. Hậu quả là đảng Cộng Sản Việt Nam trở thành một hệ thống cầm quyền thoái hóa và tham nhũng bậc nhất trên thế giới. Tôn giáo là kẻ thù của đảng, bị đàn áp, chiếm đoạt tài sản, bí mật thủ tiêu, khi thì bị cấm chỉ, khi thì cho phép hoạt động giới hạn dưới sự kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng Sản. Ngày nay, Cộng Sản chủ trương mở cửa, cho tự do buôn bán làm ăn, nhưng sự thật chỉ có đảng viên Cộng Sản được hưởng quyền kinh doanh. Dân chúng muốn mở cơ sở làm ăn, phải liên tục đút lót, hối lộ cho các đảng viên đảng Cộng Sản.

The power system of the communists: Officially, the communist national system has an executive, legislative, and a judicial branch, as do democratic countries. But in fact, there is absolutely no power separation. The communist party is the only organization to rule the country even though they always say that the people are the masters of the country. The cadres of these three branches come from the communist party, so all three branches have to follow the orders of the communist party and work for the welfare of the party, not for the people, who are blessed with the title “owners of the country.” The communist party controls all media systems, including the press, broadcasting, and television. All domestic and overseas news is edited and changed to serve the party. People cannot voice opposite opinions. People do not have the actual right to vote or to run as candidates. People can only vote for candidates in a pre-selected list, supplied by the communist party. The society also has laws, but these laws are interpreted to correspond to the wishes of the communist party, not to the standards of justice. High-ranking communist officers and their relatives are super citizens who are not prosecuted by law as normal people. When the communist party wants to kill anyone, the party shifts the blame to that person for “opposing the party,” “opposing the revolution,” or “opposing the people,” crimes which are not defined in legislative law. The central committee of the communist party is an organization that has the real authority to lead and decide all national affairs. Since people do not vote for this committee, Vietnam does not have democracy. All the decisions of the leaders aim to serve the communist party, regardless of the needs of the country and people. Consequently, the central party members and their families always live wealthy lives, while regular people live under the poverty level. Reading books published by the communists, one would think that Vietnamese people are the real owners of their country and have all human rights. In fact, people do not have basic humble human rights such as freedom of speech, freedom of press, freedom of religion, and freedom to vote and run for an election as a candidate. Voices from people to ask for democracy and human rights are banned. Opponents can even be secretly killed without a formal trial. The Vietnamese communist party has become the most corrupted system and it is moving backward. Religions, which are considered the party’s enemies, have been abused, robbed and controlled under the strict guidelines of the communist party.

Le système de pouvoir des communistes: Officiellement, le système national communiste a un pouvoir exécutif, législatif et un pouvoir judiciaire, comme l’ont les pays démocratiques. Mais en fait, il n'y a absolument pas de séparation de pouvoir. Le parti communiste est le seul organisme à gouverner le pays même si on dit toujours que le peuple est maître du pays. Les cadres de ces trois branches viennent du parti communiste, donc toutes les trois branches doivent suivre les ordres du parti communiste et travailler pour le bien du parti, non pas pour le peuple qui est bénit avec le titre « Les propriétaires du pays ». Le parti communiste contrôle tous les médias, y compris la presse, la radiodiffusion et la télévision. Toutes les nouvelles nationales et étrangères sont éditées et modifiées pour servir le Parti. Les gens ne peuvent pas exprimer des opinions opposées. Les gens n'ont pas le droit effectif de voter ou de se présenter comme candidats. Les gens ne peuvent voter que pour les candidats d'une liste de présélectionnées, fournie par le parti communiste. La société a aussi des lois, mais ces lois sont interprétées pour correspondre aux souhaits du parti communiste, non des normes de justice. Les hauts officiers communistes et leurs familles sont des supers citoyens qui ne sont pas poursuivis en justice selon la loi comme les gens normaux. Lorsque le Parti communiste veut éliminer quelqu'un, le parti l’accuse « d’opposition à la révolution », ou « d’opposition au peuple », des crimes qui ne sont pas définis dans le droit législatif. Le comité central du parti communiste est une organisation qui a l'autorité réelle de conduire et de décider de toutes les affaires nationales. Puisque les gens ne votent pas pour ce comité, le Viêt-Nam n'a pas de démocratie. Toutes les décisions des dirigeants ont pour objectif de servir le parti communiste indépendamment des besoins du pays et des personnes. Par conséquent, les membres du comité central du parti et leurs familles vivent toujours richement, tandis que les gens ordinaires vivent sous le seuil de pauvreté. A la lecture de livres publiés par les communistes, on pourrait penser que les viêtnamiens sont les véritables propriétaires de leurs pays et ont tous les droits de l'homme. En fait, les gens n'ont pas les droits humains les plus élémentaires comme la liberté d'expression, la liberté de la presse, la liberté de religion et la liberté de voter et de participer à une élection comme candidat. Les voix de gens réclamant la démocratie et les droits humains sont interdites. Les opposants peuvent même être secrètement mis à mort sans procès formel. Le parti communiste viêtnamien est devenu le système le plus corrompu et il fait régresser la société. Les religions, qui sont considérées comme des ennemis du parti, sont maltraitées, volées et contrôlées selon les directives strictes du parti communiste.

118. Người Cộng Sản rất sợ sự thật: Khẩu hiệu của đảng Cộng Sản là những mỹ từ cao đẹp nhất trên đời như Độc Lập, Tự Do, Bình Đẳng... nhưng việc làm của họ lúc nào cũng tàn ác, bất công. Vì thế người Cộng Sản rất sợ sự thật. Họ sợ những tin tức trong nước truyền ra ngoài và sợ những tin tức từ nước ngoài loan truyền vào trong nước. Vì thế các hệ thống báo chí, thông tin bị kiểm soát chặt chẽ. Phóng viên ngoại quốc rất bị hạn chế trong một nước Cộng Sản. Nghe đài hay đọc sách báo nước ngoài là một trọng tội, có khi còn nặng hơn tội trộm cướp. Viết thư cho người ngoại quốc, cho các hãng thông tấn ngoại quốc, trả lời phỏng vấn trên điện thoại là những tội phạm quan trọng, có thể bị bỏ tù, bị mất việc, mất chức bất cứ lúc nào. Họ luôn luôn che dấu sự thật để lừa dối người dân trong nước và dư luận ngoại quốc. Phóng viên các tờ báo trong nước được nhà cầm quyền đào tạo và kiểm soát chặt chẽ. Luật báo chí khẳng định không cho phép tư nhân được viết báo, không cho phép phóng viên của chế độ viết lên những sự việc xấu xa, tham nhũng, bán nước của nhà cầm quyền, dù đó là sự thật. Hơn 600 tờ báo và tạp chí trong nước, vào thời điểm 2009, hoàn toàn do đảng Cộng Sản làm chủ và kiểm soát.

The communists are afraid of justice: The slogans of the communist party contain such beautiful words as: independence, freedom, equality... But the party’s actions are cruel and unjust. For that reason, the communists are afraid of the truth. They are afraid of domestic news spreading abroad or outside news reaching the Vietnamese people. So the press and broadcasts are thoroughly checked and controlled. Foreign reporters’ activities are limited in a communist country. Listening to a foreign broadcasting program or reading foreign books, magazines, or newspapers is a felony, worse than theft. People who write letters to foreigners, listen to foreign broadcasting programs, or get interviewed by foreigners are charged with a high level felony and can be imprisoned or lose their jobs. The communist party always hides the truth to deceive people. The media reporters are trained and strictly controlled by the government. The press law does not permit an individual to publish a newspaper or report bad things about the government, even if those bad things are the truth.

Les communistes ont peur de la justice: Les slogans du parti communiste contiennent ces belles paroles suivantes: indépendance, liberté, égalité ... Mais les actions du parti sont cruelles et injustes. Pour cette raison, les communistes ont peur de la vérité. Ils ont peur que les nouvelles nationales se répandent à l'extérieur et atteignent le peuple viêtnamien. Alors la presse et les émissions sont soigneusement vérifiées et contrôlées. Les activités des journalistes étrangers sont limitées dans un pays communiste. Écouter une émission de radiodiffusion étrangère ou lire des livres étrangers, des magazines ou de journaux est un crime, pire que le vol. Les gens qui écrivent des lettres à des étrangers, écoutent des émissions de radiodiffusion étrangères, ou se font interviewer par des étrangers sont accusés d'un crime de haut niveau et peuvent être emprisonnés ou perdre leur emploi. Le parti communiste cache toujours la vérité pour tromper les gens. Les reporters des médias sont formés et strictement contrôlés par le gouvernement. La loi sur la presse ne permet pas à un individu de publier un journal ou rapporter de mauvaises choses sur le gouvernement, même si ces mauvaises choses sont la vérité.

Miền Nam có đời sống hiền hòa, thanh bình. Con cháu được dạy dỗ biết yêu mến, tôn trọng cha mẹ, ông bà.

119. Đời sống và xã hội miền Nam từ 1954 đến 1975: Thời kỳ đầu, người dân miền Nam sống trong hòa bình. Dân chúng được tự do làm ăn, hầu hết có cơm no áo ấm. Thuế má nhẹ nhàng, nông nghiệp, công nghiệp nhẹ phát triển nhanh chóng. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, xã hội ổn định, nền dân chủ được thành hình rõ nét, giáo dục, văn hóa phát triển lành mạnh. Từ một nước thuộc địa của Pháp, miền Nam trở thành độc lập và phát triển nhanh chóng. Vào thập niên 1960, Nam Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển ở Đông Nam Á. Từ năm 1968 trở đi, chiến tranh giữa Quốc Gia và Cộng Sản trở nên khốc liệt, lại thêm những bất đồng giữa chính quyền và tôn giáo, xã hội trở nên rối loạn. Về sau, Cộng Sản cài người vào chánh quyền miền Nam, gian ngay lẫn lộn thiệt giả khó phân, xã hội trở nên mất ổn định. Chính quyền lại quá trông cậy vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, mà không dựa vào người dân miền Nam. Những khuyết điểm đó làm mất lòng dân, mất cả thế đứng chính trị cho chính quyền miền Nam. Mặt khác trong cuộc chiến tranh khốc liệt đó, chính quyền khoán trắng việc chống Cộng cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phần lớn người dân miền Nam đứng ngoài cuộc chiến. Học đường chỉ chăm lo giáo dục thuần túy, chú trọng dạy học sinh khoa học và sống đời ngay thắng, chớ không đề cập đến tình hình chiến tranh. Trong khi Cộng Sản tấn công miền Nam hàng ngày, hàng giờ, thì học đường không chuẩn bị cho học sinh một tinh thần chống giặc bảo vệ đất nước. Sự yếu kém về tổ chức xã hội, học đường đã góp phần quan trọng vào sự thất bại của miền Nam năm 1975.

Life and Society of the South from 1954 to 1975: In the early stage of this period, people of the South lived a peaceful life. People were free to work and enjoyed an easy life. The tax rate was low. Agriculture and light industries quickly progressed. With the help from the U.S. government, the society of the South was stable. Education and cultural activities quickly developed. In the 1960s, Vietnam was one of the advanced developing countries in the Southeast Asia. After 1968, the war between the South and the communists violently increased. In additional, the conflict between the southern government and the Buddhism led to a more disordered society. The communists also installed their spies into the southern government, causing a confusing situation in the society. Also, the southern government was depended too much on aid from the America, and not enough on their own people. Those bad policies led to the erosion of public support and the political stability of the South. In that violent war, the government left the job of fighting the communists entirely to the South army while most of the Southerners stayed outside of the battle. That poor social organization contributed a big part to the loss of the South in 1975.

Vie et Société du Sud de 1954 à 1975: Au début de cette période, les populations du Sud vécurent une vie paisible. Les gens étaient libres de travailler et connaissaient une vie facile. Le taux d'imposition était faible. L'agriculture et l’industrie légère progressèrent très rapidement. Avec l'aide du gouvernement américain, la société du Sud était stable. Activités éducatives et culturelles se développèrent très vite. Dans les années 1960, le Viêt-Nam fut l'un des pays en voie de développement les plus avancés dans la région Asie du Sud Est. Après 1968, la guerre entre le Sud et les communistes s’accrut violemment. De plus, le conflit entre le gouvernement du Sud et les bouddhistes conduisit à une société plus désordonnée. Les communistes installèrent également leurs espions dans le gouvernement du sud, provoquant une situation confuse dans la société. Egalement, le gouvernement du Sud compta trop sur l'aide de l'Amérique, et pas assez sur son propre peuple. Ces mauvaises politiques conduisirent à l'érosion du soutien public et de la stabilité politique du Sud. Dans cette guerre violente, le gouvernement abandonna le travail de lutte contre les communistes entièrement à l'armée du Sud tandis que la plupart des Sudistes restaient à l'extérieur de la bataille. Cette pauvre organisation sociale contribua grandement à la perte du Sud en 1975.

Miền Nam có đời sống hiền hòa, thanh bình

120. Tổng thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ I Cộng Hòa: Ông Ngô Đình Diệm là vị Tổng thống đầu tiên của miền Nam, là một vị lãnh tụ của chế độ dân chủ đầu tiên của nước ta trong suốt 4 ngàn năm lịch sử. Năm 1955, trong hoàn cảnh đất nước vừa được trao trả từ thực dân Pháp, lại phải đương đầu với sự phá hoại của Việt Cộng, ông Ngô Đình Diệm thành lập một chính phủ mới cho miền Nam và được chính quyền Hoa Kỳ ủng hộ về mặt vật chất. Dưới tài lãnh đạo của ông, miền Nam an hưởng thái bình, tiến bộ và phát triển nhanh chóng, bỏ rất xa miền Bắc nghèo nàn đói khổ, sống trong lo sợ hận thù do Cộng sản gây nên. Tuy nhiên vào các năm 1962-1963 có những va chạm giữa Phật giáo và chính quyền. Một số người cho rằng nguyên nhân của sự va chạm là do các anh em ông ủng hộ Thiên chúa giáo, đàn áp Phật giáo là một tôn giáo lâu đời và có ảnh hưởng lớn nhất ở nước ta. Nhưng nguyên nhân chính là do Cộng Sản nằm vùng, giả dạng thầy tu tạo nên sự mâu thuẩn giửa chính quyền và Phật giáo. Mặt khác, tổng thống Ngô Đình Diệm lại chủ trương độc lập quân sự, không chấp nhận Hoa Kỳ đưa quân vào trực tiếp tham gia chiến cuộc Việt Nam làm mất lòng các thế lực tài phiệt Hoa Kỳ . Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chính quyền tổng thống Diệm bị một số tướng tá miền Nam lật đổ với sự giúp đở của các cố vấn Hoa Kỳ. Những tài liệu sau nầy cho thấy chính quyên Hoa Kỳ ủng hộ cuộc đảo chánh ông Diệm vì ông không đồng ý cho chính quyền Hoa Kỳ mang quân đội vào miền Nam, cho rằng sự hiện diện của quân đội ngoại quốc sẽ gây bất lợi về mặt tâm lý. Tổng thống Ngô Đình Diệm và em ruột là ông cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết chết trong cuộc đảo chánh này. Các ông Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Xuân là các tướng lãnh trực tiếp ra lịnh giết hại Tổng thống Ngô Đình Diệm. Sự can thiệp quá đáng của Hoa Kỳ vào nội bộ chính quyền Việt Nam gây ảnh hưởng xáo trộn cho xã hội miền Nam trong một thập niên kế tiếp.

Càng ngày khi các sự kiện lịch sử dần dần sáng tỏ, người ta càng tìm thấy các mặt xấu xa, vô đạo đức của lãnh tụ Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo của Cộng Sản Bắc Việt. Trong khi đó người ta càng tìm thấy các mặt thanh liêm, trong sáng trong cuộc sống đạo đức của vị Tổng Thống khả kính đầu tiên của đất nước Việt Nam.


Đầu tháng 11 mổi năm, đồng bào Việt nam hải ngoại trân trọng tổ chức lễ tưởng niệm Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm.

President Ngo Dinh Diem and Buddhism: Mr. Ngo Dinh Diem was the first president of the South, the first leader of a democratic regime in Vietnam. In 1955, just after the country gaining independence from the French, Mr. Ngo Dinh Diem established a government of the South that was strongly supported by the U.S. Under President Ngo’s management, the South enjoyed a peaceful life, and was quickly developing. However, there were conflicts between the government and Buddhism in 1962-1963. Most think that the cause of the conflicts comes from the favored treatment given to the Catholics by President Ngo and his brothers, from the crushing of Buddhism, a traditional religion of Vietnam which had deep relation to the Vietnamese, and from the secret pushing by the communists. For whatever reason, on November 1, 1963, president Ngo was overthrown by a group of southern generals with the help from the U.S. government. Later, the documentation showed that the U.S. government supported the coup d’etat because president Ngo did not agree to have American army in the South. He apparently thought that the presence of a foreign army would lead to a psychological disadvantage. President Ngo Dinh Diem and his brother, Mr. Ngo Dinh Nhu, were killed in the coup.

Le Président Ngô Dình Diêm et le bouddhisme: M. Ngô Dình Diêm fut le premier président du Sud, le premier chef d'un régime démocratique au Viêt-Nam. En 1955, juste après l'accession à l'indépendance du pays des français, M. Ngô Dình Diêm établit un gouvernement du Sud qui fut fortement soutenu par les Etats Unis. Sous la gestion du président Ngô Dình Diêm, le Sud connut une vie paisible, et se développa rapidement. Cependant, il y a eu des conflits entre le gouvernement et les bouddhistes en 1962-1963. La plupart pensent que la cause des conflits venait du traitement de faveurs accordées aux catholiques par le président Ngô Dình Diêm et ses frères, de l'écrasement du bouddhisme, une religion traditionnelle du Viêt-Nam qui avait une relation profonde avec les Viêtnamiens, et la pression secrète des communistes. Pour une raison quelconque, le 1er Novembre 1963, le président Ngô Dình Diêm fut renversé par un groupe de généraux du Sud avec l'aide du gouvernement américain. Plus tard, la documentation révéla que le gouvernement américain soutint le coup d'état parce que le président Ngô Dình Diêm n'avait pas accepté la présence de l'armée américaine dans le Sud. Il semble qu'il ait pensé que la présence d'une armée étrangère aboutirait à un désavantage psychologique. Le Président Ngô Dình Diêm et son frère, M. Ngô Dình Nhu, furent tués dans le coup.


Viet Nam History - Part 13

Trở Về Trang Gốc Lịch Sử Việt Nam