Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở
nhà.
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530. Con quan Lại bộ tên là Hoạn
thư.
Duyên Ðằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những
ngày.
ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng
già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì
không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng
hoa:
"Ví bằng thú thật
cùng ta,
1540. "Cũng dong kẻ dưới mới
là lượng trên.
"Dại chi chẳng giữ lấy nền,
"Tốt chi mà rước tiếng ghen
vào mình ?
"Lại còn bưng bít giấu quanh,
"Làm chi những thói trẻ ranh
nực cười !
1545. "Tính rằng cách mặt khuất
lời,
"Giấu ta ta cũng liệu bài giấu
cho !
"Lo gì việc ấy mà lo,
"Kiến trong miệng chén có bò
đi đâu ?
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550. "Làm cho đầy đọa cất
đầu chẳng lên !
"Làm cho trông thấy nhãn tiền,
"Cho người thăm ván bán thuyền
biết tay."
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái
ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ấy cũng liệu bài tâng
công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
"Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu
ngươi !
"Chồng tao nào phải như ai,
1560. "Ðiều này hẳn miệng
những người thị phi !"
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Ðứa thì vả miệng đứa thì bẻ
răng.
Trong ngoài kín mít như bưng,
Nào ai còn dám nói năng một lời !
1565. Buồng đào khuya sớm thảnh
thơi,
Ra vào một mực nói cười như
không.
Ðêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống
yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570. Chữ tình càng mặn chữ duyên
càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bàĩ
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng ?
Những là e ấp dùng dằng,
1580. Rút dây sợ nữa động rừng
lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu
đâu.
Rằng: "Trong ngọc đá
vàng thau,
"Mười phần ta đã tin nhau cả
mười.
1585. "Khen cho những miệng dông
dài,
"Bướm ong lại đặt những lời
nọ kia.
"Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
"Ðã dơ bụng nghĩ lại bia
miệng cười !"
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590. Thuận lời chàng cũng nói xuôi
đỡ đòn.
Những là cười cợt phấn son,
Ðèn khuya chung bóng trăng tròn
sánh vai.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá
ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió
trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ
qua:
"Cách năm mây bạc xa xa,
1600. "Lâm Truy cũng phải tính
mà thần hôn."
Ðược lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê
người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng
vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường
quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu
đen.
Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ
hờn ghen,
1610. "Xấu chàng mà có ai khen
chi mình !
"Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
"Mưu cao vốn đã rắp ranh những
ngày.
"Lâm Truy đường bộ tháng
chầy,
"Mà đường hải đạo sang ngay
thì gần.
1615. "Dọn thuyền lựa mặt gia
nhân,
"Hãy đem dây xích buộc chân
nàng về.
"Làm cho cho mệt cho mê,
"Làm cho đau đớn ê chề cho coi
!
"Trước cho bõ ghét những
người,
1620. "Sau cho để một trò cười
về sau !"
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng lại chọn một bầy côn
quang.
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang biển
Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Ðường kia nỗi nọ như chia mối
sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630. Biết đâu ấm lạnh biết đâu
ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho
chăng ?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao
!
Ðêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa
trời.
Nén hương đến trước Thiên đài,
1640. Nỗi lòng khấn chửa cạn lời
vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra !
Ðầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm
sao.
1645. Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì
!
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa
dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. Ðem vào để đó lận sòng ai
hay ?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng
rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao
xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy
đâu !
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660. Giếng sâu bụi rậm trước sau
tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy
tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai !
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết
na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
1670. Lục trình chàng cũng đến nơi
bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn
tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy
gan !
Gieo mình vật vã khóc than:
"Con người thế ấy thác oan thế
nàĩ
"Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680. "Ai hay vĩnh quyết là ngày
đưa nhau !
"Thương càng nghĩ nghĩ càng
đau,
"Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho
khuây."
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ
ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Ðạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn
nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
"Mặt nàng chẳng thấy việc nàng
đã tra.
"Người này nặng nghiệp oan gia,
"Còn nhiều nợ lắm sao đà
thoát cho !
1695. "Mệnh cung đang mắc nạn
to,
"Một năm nữa mới thăm dò
được tin.
"Hai bên giáp mặt chiền chiền,
"Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn
lạ thay !"
Nghe lời nói lạ dường này,
1700. Sự nàng đã thế lời thầy dám
tin !
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi
trần ?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.